Bài giảng hôm nay sẽ đưa các em đến với tình cha con tốt đẹp được thể hiện qua Cha con nghĩa nặng. Mong rằng, các em sẽ nắm được dụng ý về nội dung cũng như về nghệ thuật được tác giả gởi gắm qua đoạn trích. Chúc các em có thêm một bài giảng hay và ý nghĩa.
⇒ Là một con người bất hạnh, nhưng ông chính là tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lao động bình dị, nhân hậu, chất phác, giàu tình cảm, sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời, thậm chí cả mạng sống để bảo toàn cho hạnh phúc lâu dài của những đứa con
⇒ Là một người con rất mực thương cha, đã sẵn sàng tạm gác hạnh phúc riêng để giải tỏa nỗi đau cho cha, chăm sóc, an ủi cha trong thử thách đầy khó khăn của cuộc đời.
đoạn trích diễn đạt thành công tình cảm thiêng liêng của con người, đó là tình cha con. Sau khi vô tình giết vợ và bỏ trốn, Trần Văn Sửu phải luôn luôn đối mặt với pháp lí và đạo lí. Pháp lí thì có thể tránh được sự truy nã nhưng đạo lí thì không trốn được tình phụ tử. Lẩn trốn cả đời thì lỗi đạo làm cha, còn trở về có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Cuối cùng Trần Văn Sửu đã mạo hiểm trở về. Để nắm được những nội dung kiến thức cần đạt khi học văn bản này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Cha con nghĩa nặng.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Hồ Biểu Chánh là một trong số những cây bút đặt nền móng quan trọng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trước khi Tự Lực Văn Đoàn xuât hiện (1932), Hồ Biểu Chánh đã cho ra mắt bạn đọc hơn 20 cuốn tiểu thuyết và sau này là hơn 60 cuốn tiểu thuyết. Ông là một tác giả quen thuộc của người dân Nam Bộ. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí. Để dễ dàng lập được dàn ý và viết một bài văn hoàn chỉnh, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích tình cha con trong văn bản Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh
- Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng trích tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh
-- Mod Ngữ văn 11 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Dù trốn đi biệt xứ nhưng Trần Văn Sửu vẫn không ngừng nhớ về con, lo cho con rất nhiều. Bên cạnh đó nhân vật người cha không quản nguy hiểm quyết về thăm con -> sợ liên lụy đến con nên chưa gặp đã vội trốn đi. Thậm chí có đôi lúc nhân vật người cha định tự tử vì sự bình yên của con.
=> Một người cha hết lòng yêu thương và lo cho con của mình, người cha không hề nghĩ đến hạnh phúc cá nhân của bản thân, sẵn sàng chịu cảnh khổ, xa con, thay tên đổi họ để không phải liên lụy đến con. Trần Văn Sửu buộc lòng chấp nhận hi sinh hạnh phúc chính đáng của người cha để đảm bảo hạnh phúc đang trong tầm tay cho các con.
Câu trả lời của bạn
Sau khi đọc và tìm hiểu đoạn trích của Hồ Biểu Chánh nói về tình cảm cha con có thể nhận thấy “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh là đoạn trích rất cảm động về tình cha con sâu nặng hiếm có trong văn học. Đây là một trong những tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ, khai thác tình huống éo le để tô đậm tính cách nhân vật từ đó bộc lộ dụng ý ca ngợi mối quan hệ đẹp giữa con người, quan hệ đạo đức trong gia đình của nhà văn. Tác phẩm là tuyên ngôn về đạo đức gia đình về tình cảm cha con sâu nặng.
Câu trả lời của bạn
- Tình cảm của người con mãnh liệt và da diết. Ngầm theo dõi câu chuyện của cha nên càng thương cha nhiều hơn. Lo lắng, thương cha, hi sinh hạnh phúc bản thân để đi tìm cha, nhất quyết không cho cha đi. Cũng như với người cha, cuộc hội ngộ giữa hai cha con làm thoả lòng mong nhớ bấy nay của Tí. Tí thể hiện tình cảm với người cha hết sức nồng nàn, thắm thiết. Các hành động, cử chỉ của nhân vật này cũng được miêu tả thật tự nhiên, chân thật như là sự bùng phát của nỗi nhớ thương bị dồn nén bấy lâu: “chạy riết lại nắm tay cha”, “dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong lòng mà nói”…
=> Tí là một đứa con hiếu thảo, mong muốn được sống trong cảnh cha con sum vầy: “Vậy thì bây giờ cha đi đâu con theo đó”, “Hễ cha đi thì con đi theo”, “Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chứ”,… Những câu Tí nói vói cha còn thể hiện thái độ trách nhiệm của một người con trai lớn biết sống tự lập và tự quyết định cuộc sống của mình.
Câu trả lời của bạn
- Tình huống truyện giàu kịch tính: Cuộc trở về bí mật trong đêm của Trần Văn Sửu chưa kịp gặp con lại phải đi. Cuộc chạy đuổi trong đêm giữa hai cha con. Cuộc gặp gỡ tại cầu.
-> Làm nổi bật chủ đề, dụng ý của nhà văn.
- Diễn biến câu chuyện, dưới hình thức đối thoại của hai cha con, có nhịp độ nhanh và lát sinh động. Có thể nhận thấy nhà tiểu thuyết thúc đẩy tiến trình sự việc rất nhanh và sắc sảo qua lời đối thoại như trong kịch, ông đã tước đi hầu hết những lời dẫn rườm rà để cuốn hút người đọc tập trung theo dõi câu chuyện. Trong các lời thoại, người đọc không còn thấy kiểu đối xứng, hô ứng có vẻ sách vở giữa các vế nữa.
- Việc để cho Tí ráo riết tìm các giải pháp xử lí tình huống khó xử, gay cấn với cả hai cha con cho thấy lòng thương yêu cha của Tí thật là sâu sắc. Tí cũng tự chứng tỏ tính cách mạnh mẽ của mình - không chịu bó tay trước hoàn cảnh. Cuối cùng, Tí đã tìm được lối thoát khả dĩ cho tình huống tưởng như bế tắc đó làm dịu lòng ngưòi cha, yên được lòng mình, vẹn được nhiều bề?
=> Từ cách xử lí tình huống giàu kịch tính ở đoạn trích, tính cách các nhân vật được tô đậm theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Có thể nói, theo Hồ Biểu Chánh, một kết thúc tốt đẹp chỉ có thể là một kết thúc hợp đạo lí truyền thống - cha giữ đạo làm cha, con giữ đạo làm con. Được như vậy, tình cha con mới sâu nặng, vẹn tròn.
Câu trả lời của bạn
- Tâm trạng của người cha như sau: người cha rất vui khi được biết con mình đã được cưu mang, sắp thành gia thất. Trần Sửu nghĩ bây giờ chết cũng yên tâm, không còn băn khoăn gì nữa.
- Tâm trạng của người con như sau: người con ngỡ cha nó chết rồi. Sự xuất hiện của cha là một bất ngờ với nó. Nghe được câu chuyện giưa cha và ông ngoại, người con càng thương và quý cha nó hơn.
Câu trả lời của bạn
- Về nội dung:
+ Ca ngợi truyền thống đạo lí của mỗi con người.
+ Ca ngợi tình cha con sâu nặng.
+ Vẻ đẹp lòng hiếu thảo và tình thương con là bài học của muôn đời.
- Về nghệ thuật:
+ Diễn tả tâm lí nhân vật qua lời nói và hành động.
+ Tạo tình huống phức tạp căng thẳng, mâu thuẫn được đẩy lên qua lời thoại.
+ Ngôn ngữ giàu sắc thái Nam Bộ, sử dụng nhiều từ ngữ và cách nói địa phương.
Tóm tắt tác phẩm Cha con nghĩa nặng.
Câu trả lời của bạn
Chuyện xảy ra ở Giồng Ké. Trần Văn Sửu, một nông dân hiền lành, chất phác, là con rể của hương thị Tào. Vợ của anh ta là thị Lựu, tuy đã có ba mặt con rồi, nhưng vẫn còn trăng hoa. Một hôm, khi thị đang ngoại tình với hương hào Hội thì bị chồng bắt được quả tang. Thị Lựu đã níu áo chồng cho gã nhân tình chạy thoát. Thị kêu la, chửi mắng Sửu; hai vợ chồng đôi co. Trần Văn Sửu tức giận xô vợ ngã đập đầu vào phản chết ngay. Sửu vô cùng hoảng sợ, vọt ra khỏi nhà chạy trốn biệt tích. Ai cũng tưởng anh ta đã nhảy xuống sông tự tử.
Trần Văn Sửu lặn lội đến một vùng heo hút xa xôi, đổi tên là Sơn Rùm, làm thuê kiếm sống, tập nói tiếng Thổ, rồi chạy được giấy thuế thân. Nhưng anh ta vẫn đêm ngày thương nhớ đàn con thơ dại và ân hận về chuyện làm vợ chết. Đứa con út chết, hai đứa con của anh ta, con Quyên và thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào. Chúng khôn lớn dần, lại siêng năng làm ăn. Trong vùng có bà hương quản Tồn rất thương hai đứa con của Sửu, hết sức chăm sóc, đỡ đần và nhắm dựng vợ gả chồng cho chúng.
Mười mấy năm đã trôi qua. Một đêm trăng sáng, hương thị Tào bỗng thấy một người Thổ bước vào sân nhà. Cha vợ và con rể gặp nhau. Vì còn ấm ức chuyện cũ, lại sợ làng tổng đến bắt, ảnh hướng đến hạnh phúc của hai đứa cháu nên hương thị Tào không cho Sửu vào nhà gặp con. Đau khổ, thất vọng, Sửu chắp tay xá cha vợ, rồi đội nón lên và bươn bả bước ra lộ hướng về cánh đồng Phú Tiên. Thằng Tí đứng trong cửa nhìn ra, nghe hết mọi chuyện đã xảy ra giữa ông ngoại và cha nó. Nó bước vội ra sân trách móc ông ngoại "sao đuổi cha tôi đi?". Thằng Tí chạy ra lộ đuổi theo cha. Đường vắng vẻ, đồng lúa bao la, trăng sáng,... Trần Văn Sửu ngoái đầu nhìn lại thấy có người đuổi theo, anh ta ngỡ là làng tổng rượt đuổi bắt. Quá hoảng sợ, anh ta co giò mà chạy. Oua khỏi cánh đồng Phú Tiên, Sửu ngoái đầu lại, anh ta mừng thầm vì không thấy bóng người đuổi rượt theo nữa. Sửu ngồi nghỉ trên cầu Mê Tức. Xúc động, bồi hổi, anh ta nhìn dòng nước mà nghĩ: có chết mới quên được việc cũ, có chết mới hết cực khổ buồn rầu. Sửu chui đầu qua lan can cầu, toan nhảy xuống sông tự tử thì nghe thấy tiêng người gọi : "Ai đó? Phải cha đó không, cha?" Hai cha con ôm lấy nhau mà khóc, bịn rịn bàn bạc mãi chuyện đi, về cho đến lúc sao Mai mọc.
Từ đó, thằng Tí cứ bí mật đi đến sóc người Thổ thăm cha nó. Về sau nhờ cậu Ba Giai là chồng của cô Quyên lo lót, vận động, Trần Văn Sửu được miễn truy tố, anh ta được trở lại quê hương sum họp với các con.
Đoạn trích được học kể lại sự việc thằng Tí chạy theo cha và hai cha con gặp nhau trên cầu Mê Tức. Nội dung chính của đoạn trích là miêu tả tình cha con nghĩa nặng. Nó thể hiện ở lương tâm, lời nói, cử chỉ của người cha và cả người con. Đó là mối quan hệ “phụ tử tình thâm”. Tình cha con của anh Sửu và thằng Tí được thể hiện sâu sắc và cảm động trong màn gặp gỡ.
Trần Văn Sửu đã 11 năm biệt tích. Cuộc gặp gỡ giữa anh với cha vợ và các con lần này với anh không phải là quá bất ngờ. Nó được nung nấu trong ân hận và nhớ thương. Anh đã chủ động tìm về. Được cha vợ cho biết hai đứa con anh đã được bà hương quản Tồn thương. Một lấy làm con dâu, một chuẩn bị dựng vợ cho. Trần Văn Sửu vô cùng sung sướng, mãn nguyện. Tình của người cha với con cũng chỉ mong có thế. Sửu chấp nhận: “Phải chịu đau đớn, cực khổ, buồn sầu”, “miễn là con được sung sướng”, đặc biệt đoạn độc thoại: “Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu nay mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu cực khổ nữa”. Tình nghĩa của người cha bộc lộ ở suy nghĩ này.
Biết con anh sắp thành gia thất, lí ra anh phải rất sung sướng nhưng anh lại nghĩ đến cái chết hoặc đi biệt tích. Hành động của anh xuất phát từ lí lẽ giản đơn: “Để cha đi. Cha đi cho biệt tích, đặng con lấy vợ và con Quyên lấy chồng mới tử tế được”. Muốn con được sung sướng hạnh phúc, người cha phải chấp nhận mọi hi sinh - chính mâu thuẫn trong tâm trạng càng khẳng định tình nghĩa cha con của Trần Văn Sửu.
Cha Tí trở về là bất ngờ lớn nhất với Tí. Vì Tí cứ nghĩ cha đã chết từ lâu rồi. Bất ngờ hơn, Tí đã nghe được câu chuyện giữa cha và ông ngoại. Tí đã hiểu tình cảm của cha nó. Nó càng thương, càng quý trọng cha nó. Cho nên khi cha nó nghe lời ông ngoại bỏ đi luôn, Tí đã chạy đuổi theo. Mãi tới cầu Mê Tức mới gặp cha nó. Đây là hình ảnh thật cảm động của tình cha con: “Thằng Tí chạy riết lại nắm tay cha nó, dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong lòng mà nói: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy?”. Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết”. Chẳng cần phải bình thêm cử chỉ ấy của tình cha con đã nói giùm tất cả.
Phân tích bài Cha con nghĩa nặng.
Câu trả lời của bạn
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm", chẳng biết câu thơ của nhà thơ Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không? Nhưng xét về một mặt nào đó, có thể nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của cả hai tác giả này là cảm hứng đạo lí.
Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất (1888), Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ Hồ chính là một sự kế tục nào đó tình thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ - hơn sáu mươi cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã qua đi, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những phía không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai, vẫn có thể làm cảm động lòng người đọc ở thế kỉ XXI này, và hẳn nó cũng chưa chịu dừng lại ở đấy. Bởi vì, đạo lí làm người một khi đã trở thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hoá thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. Ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng làm cảm động con người, chừng ấy nó không cũ.
Đọc trích đoạn của Cha con nghĩa nặng người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.
Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng cách vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của nhiều thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm cả luận lí, triết học nữa,... Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.
Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm đềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ đã không biết điều, lại còn có thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiểm chế được, Sửu đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo. Sửu phải bỏ trốn. Anh ta luôn phải đối mặt với pháp lí và đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trốn được tình phụ tử. Muốn được yên thân, anh ta phải trốn tránh. Nhưng muốn được sống đúng đạo của người cha, anh ta phải trở về. Lẩn trốn cả đời thì lỗi đạo làm cha. Còn trở về có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ta ở phần trước. Còn đến đây thì đã qua. Anh ta đã trở về, nghĩa là tình phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh ta mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh ta là sự giằng co quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh ta vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí giành chiến thắng.
Nhưng giờ đây, anh ta đang đối mặt với một tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn, xung đột mới.
Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả làng xóm và gia đình đều yên trí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời con gái sắp lấy chồng, con trai cũng đang được mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiên, mọi chuyên chắc sẽ đổ bể hết.
Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: Cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ là hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm (cha con nghĩa nặng).
Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc vể hoàn cảnh chứ không phải là tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí, một người ông chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách của cá nhân, mà xét đến cùng là các cá nhân ấy đang đấu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.
Trong mối quan hệ với Trần Văn Sửu, hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái mình, nhưng ông không phải là kẻ rối trí hẹp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó. Ấy là khi ông mắng chửi một câu: "Mầy thiệt là khốn nạn lắmỊ". Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ là thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạy theo nhu cầu lí tưởng hoá một chiều để hoàn toàn đơn giản hoá tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng hương thị Tào vẫn là cảm thông. Ông sẵn sàng tha thứ, và đã tha thứ từ lúc nào rồi: "Thôi, chuyện cũ bỏ đi!". Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: "Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc". Tình huống đặt ra với hương thị Tào là: có nên hay không nên đáp ứng nguyên vọng tha thiết của con rể - muốn được gặp hai con của mình dù chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bên là hạnh phúc của hai cháu ngoại, mà thực ra là xung đột giữa tình thương nhỏ và tình thương lớn. Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm đến tính mệnh và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã. Còn bên trong là tình cảm sâu sắc gắn với một tầm nhìn xa của một người cha. Ông giục Sửu đi sau khi đã nói rõ điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đấy, xung đột của cảnh thứ nhất đã được giải toả. Sửu phải nén đau khổ để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi, không gặp con chính là chấp thuận hi sinh: hi sinh hạnh phúc nhỏ cúa mình (gặp các con) vì hạnh phúc lớn của con cái (để chúng được yên ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Tình thương nhỏ đã nhượng bộ cho tình thương lớn. Cảnh thứ nhất đã khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng của nhạc phụ: Trần Văn Sửu chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bả bước ra lộ".
Nếu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra ở một phía, ấy là cha vợ và con rể. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muốn nói đến. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí " ở trong nhà dò cửa chui ra". Điều này càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra.
Trước, Trần Văn Sửu chỉ muốn sống để được gặp con, giờ anh ta chỉ muốn chết để cho con bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đối thoại, thì đến đây "sân khấu" mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuổi theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuổi bắt, nên con chạy càng gấp, cha chạy càng nhanh. Tình tiết cười ra nước mắt.
Có lẽ ai cũng thấy điều này: tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh. Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc rất cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con : "Con không nên phiên trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi?".
Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy là lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu làm được như thế thì người cha sẽ bị làng bắt, tính mệnh của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc cũng bị đe doạ. Vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí đã sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình để chăm sóc và che chở cha nó. Về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Còn quay lại thì được sống trong tình phụ tử ít nhiều nhưng vô tình làm tan tành hạnh phúc trăm năm của con. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con: cha thì nhất quyết đi, con thì nhất quyết không rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ đến hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là dành lòng nhượng bộ con, nghĩa là cũng vì con thôi!... Cuối cùng, tình thương cao cả đã chiến thắng.
Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột, mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phải là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng lên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người có bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã đến đâu, con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tưởng ấy, có thể xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khái hoàn ca của đạo lí đã vang lên, đã vọng về từ đầu thế kỉ XX. Và có lẽ nó vẫn còn vang vọng.
Văn chương từ xưa đến nay ngợi ca rất nhiều về tình mẫu tử mà rất ít những tác phẩm viết về tình phụ tử. Với những trang viết vô cùng cảm động, nhà tiêu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phần nào bổ khuyết vào khoảng trống đó của văn học. Cha con nghĩa nặng đã diễn tả thành công tình nghĩa cha con, một trong những tình cảm thiêng liêng cao quí nhất của con người.
Hồ Biểu Chánh có một vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam trong những năm đầu thể ki XX. Nếu ở Bắc Bộ Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng với tiểu thuyết Tô Tám thì ở Nam Bộ Hồ Biểu Chánh được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi sức sáng tạo dồi dào, phong phú với hàng loạt những tiểu thuyết có khuynh hướng tư tưởng trong sáng, tốt đẹp (đề cao cái thiện, cổ vũ cho sự cao quý của đạo lí hình dân truyền thống: quý trọng sự thủy chung, lòng bao dung, ca ngợi sự trung thực, thằng ngay, dám hi sinh vì tín nghĩa,...). Phải đặt mình vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Cha con nghĩa nặng vào nền văn xuôi nước nhà hồi đẩu thế kỉ mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ những phẩm chất nghệ thuật của một ngòi bút tiểu thuyết giản dị, mộc mạc trong cách kể chuyện, ít gây-bất ngờ đột ngột nhưng khá cuốn hút. Hệ thống ngôn ngữ từ vựng cũng như các tình tiết về không gian, thời gian và nhân vật gần với đời thường, rất quen thuộc với người dân Nam Bộ.
Chủ đề của đoạn trích cũng như chủ đề của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện rất rõ qua nhan đề: Cha con nghĩa nặng Tình cha con cao quý thiêng liêng đã được nhà văn thể hiện hết sức xúc động không kém những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử.
Trần Văn Sửu là một người nông dân hiền lành, chất phác, một người chồng thương vợ, một người cha yêu con. Thị Lựu, vợ Sửu là một người đàn bà lăng loàn, đàng điếm. Sửu bắt-quả tang vợ ngoại tình. Vợ Sửu không biết hối lỗi, còn hỗn láo. Tức giận, Sửu xô vợ ngă. Không may Thị Lựu chết, Sửu phải bỏ trốn. Mọi người tưởng anh nhảy xuống sông tự tử. Sau mười một năm trốn tránh, Sửu lên về thăm con. Gặp bố vợ, Sửu biết con mình đã có cuộc sống yên ổn. Tuy rất muốn gặp con nhưng sợ chúng liên lụy, Sửu quyết định đi biệt tích. Nhưng thằng Tí, con trai Sửu biết bố về đã chạy đuổi theo. Cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi.
Tình cha con được tác giả đặt trong một tình huống nghệ thuật giàu kịch tính. Mâu thuẫn giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con và tình con thương cha đã bật lên lời ngợi ca: "cha con nghĩa nặng".
Cuộc chạy đuổi của hai cha con thật căng thắng. Người con vì muốn đuổi kịp cha nên đã chạy thật nhanh. Người cha một mặt vì tưởng có người đuổi bắt, mặt khác không muốn vì mình để liên lụy đến con nên càng chạy nhanh hơn. Người cha chạy vì muốn để lại phía sau sự bình yên cho các con. Người con chạy vì muốn tới kịp phía trước để giữ cha lại, lo cho tuổi già của cha. Hai-người chạy một cách vội vã, gấp gáp và họ đã gặp nhau trong tình thương yêu giành cho người mà họ yêu thương nhất.
Khi người cha định tự tử thì đứa con cũng vừa lao tới. Chi tiết này thể hiện kịch tính ở độ căng thẳng nhất. Người con chỉ chậm một chút thôi là vĩnh viễn mất cha. Người cha chỉ nhanh thêm chút thôi là không bao giờ còn có cơ hội gặp lại con. Tiếng gọi của đứa con yêu dấu đã kéo người cha khỏi bàn tay của tử thần. Giây phút cha con gặp nhau thật vô cùng cảm động: "Trần Văn Sửu giật mình, tháo đầu trở vô, rồi dậy mà ngó. Thằng Tí chạy riết lại nắm tay cha nó, dòm sát vào mặt mà nhìn, rồi ôm cổ cha mà nói: "cha ơi, cha chạy đi đâu vậy". Lúc ấy, Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tìm cháy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết. Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi mới buông ra". Đặt tình cha con vào ranh giới của sự sống và cái chết, sự gặp gỡ và chia li vĩnh viễn, tác giả đã khiến người đọc vô cùng hồi hộp và cũng vô cùng hạnh phúc để rồi từ đó nhận ra tình cha con là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý.
Cuộc trò chuyện cảm động giữa hai cha con một mặt thể hiện tấm lòng thương yêu con của anh Sửu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu cha của thằng Tí. Người cha vì hạnh phúc của con mà nhất quyết hi sinh cuộc sống riêng, muốn vĩnh viễn xa con. Người con vì thương cha, lo cho tuổi già và sự an nguy của cha mà chạy theo tìm cha bằng được để mời cha trở về. Khi cha nhất định đi, Tí đã quyết theo cha vì "đi theo đặng làm mà nuôi cha, chừng nào cha chết rồi con về". Cuộc đối thoại giằng co đầy mâu thuẫn và xúc động, tô đậm mối quan hệ máu mủ ruột rà đáng quý: cha quên mình chỉ nghĩ đến tương lai hạnh phúc của con. Ngược lại con hoàn toàn chỉ nghĩ đến cuộc sống an vui thanh thản lúc tuổi già của cha. Quả thật đây là một bài ca cảm động về tình nghĩa cha con: cha hiền, con hiếu.
Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh đã được viết cách đây bảy thập kỉ. Từ ngữ, câu văn có thể cũ nhưng tình nghĩa cha con mà ông ngợi ca trong những trang viết của mình luôn luôn lấp lánh vẻ đẹp mà con người thời đại nào cũng thấy cần thiết.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm..., chẳng biết câu thơ của nhà văn Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của HỒ Biểu Chánh hay không? Nhưng xét về một mật nào đó, có thế nói con thuyền vàn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của hai tác giả này là cảm hứng đạo lí. Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất, Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ HỒ chính là một sự kế tục nào đó của tinh thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ - 60 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần xây dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã đi qua, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những khía cạnh không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai vẫn có thổ cảm động người đọc cuối thế kỉ này và hẳn nó chưa chịu dừng lại ở đấy bởi vì đạo lí làm người một khi đã thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hóa thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng cảm động lòng người, chừng ấy nó không cũ. Đọc đoạn trích của Cha con nghĩa nặng, người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.
Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng vay mượn, tận dụng, kê thừa Ưu thế của các thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm lí luận, triết học nữa... Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.
Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dê dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm đềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ không biết điều, lại còn thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sử đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trôn khỏi tình phụ tử. Muôn được yên thân anh phải sống lẫn tránh. Nhưng muốn sống đúng đạo lí của người làm cha, anh phải trở về. Lẩn trốn cá đời thì lỗi đạo cha. Còn trở về thì có thể đầy nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ở phần trước, còn đến đây thì đã qua. Anh trở về, nghĩa là phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh là sự giằng xé quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí chiến thắng.
Nhưng giờ đây, anh đang đối mặt với tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới.
Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lỡ chắc đổ bể hết.
Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính, vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ và Hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm Cha con nghĩa nặng.
Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc về hoàn cảnh chứ không phải về tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí: một người chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách cá nhân, mà xét đến cùng thì cá nhân ấy đang đâu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.
Trong quan hệ với Trần Văn Sửu, Hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông bố không phải là kẻ rối trí họp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: “Mầy thiệt là khốn nạn lắm!”. Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạy theo nhu cầu lí tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng Hương thị Tào vẫn là sự cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và tha thứ tự lúc nào rồi: “Thôi, chuyện cũ bỏ di!”. Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: “Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì dộng lòng quá, chịu không nổi, nén ông củng khóc". Tình huống đặt ra với Hương thị Tào thì có nôn hay không nên đáp ứng nguyện vọng tha thiết của con rể - muôn gặp lại hai con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bôn là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương lớn và tình thương nhỏ.Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm tới tính mạng và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã, cồn bên trong là tình cám sâu sắc gắn VỚI một tầm nhìn xa của một người cha. Ong giục Sửu đi sau khi đã nói rò điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của canh thứ nhất đã được giải tỏa. Sửu đã nén đau khố để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp lại con chính là chấp nhận hi sinh: hi sinh hạnh phúc nhỏ của mình (gặp các con) vì hạnh phúc lớn của con cái (để chúng được yên ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng cua nhạc phụ: “Trần Văn Sửu chấp tay xá cha rồi dội nón lên và bươn bả ra lộ”.
Nêu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợ và con rề. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muôn nói đến. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này, càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra.
Trước, Trần Văn Sửu chỉ muôn sông đê gặp các con, giờ anh ta chỉ muôn chết để cho chúng được bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đôi thoại, thì đến đây sân khấu mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuối theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuôi bắt, nên con chạy càng gấp cha chạy càng nhanh: tình tiết cười ra nước mắt.
Có lẽ ai cũng thây điều này: tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con cái phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con: “Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhở làm chi?”.
Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy thế mà lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu là được như thế thì người cha sợ người làng bắt, tính mạng của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc chắn sẽ bị đe dọa. Vì vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình đế’ chăm sóc và che chở cha nó. về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con: cha thì nhất quyết ra đi, con thì nhất quyết không rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ dấn hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghĩa là cũng vì con thôi!... Cuối cùng tình thương cao cả đã chiến thắng.
Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phai là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng nên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tướng ấy có thê xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên từ đầu thế kỉ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi.
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam bộ. Ông là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in trong sách Văn 11 là một trường hợp tiêu biểu.
Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của ba nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là người giết vợ. Sợ pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui lủi, đến tên tuổi tung tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn rứt dằn vặt của lương tâm. Những điều này được thể hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật chủ yếu dùng hành động và lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu.
Trong hoàn cảnh cuộc sống không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu đã sống những ngày không ra cuộc sống của con người nhưng ông đã không chết được vì lòng thương con, vì sự cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người lương thiện, hiền lành chất phác, thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con người đàng điếm lăng loàn. Ông sợ là khi mình chết đi mà các con ông không hiểu được cha của nó một cách đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con của người cha tàn bạo. Rõ ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn riêng mình nhận lấy nỗi khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con ngây thơ trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho tâm hồn chúng vẩn lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau khổ về thể xác, về tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt đẹp cho con.
Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm tháng chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có thể thực hiện điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu đã nói với cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ, làm hiện lên nguyên vẹn tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến ông trở thành người kiên quyết: "xăm xăm bước đi về cửa", "lột nón xuống mà cầm trên tay". Mặt khác cũng chính vì lòng thương con, khao khát được gặp mặt con khiến ông trở thành người mềm yếu một cách chân thực: "… cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng… Trần Văn Sửu nói tới đó rồi khóc rấm rứt". Trần Văn Sửu than rằng: "Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm sao được, trời đất ơi!". Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước mắt ta cuộc đời khổ ải của Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết, muốn gặp mặt con dù một chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến Sửu không kiềm giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương Thị Tào):
"… Con thương sắp nhỏ quá"
"… Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!"
"… Con nhớ sắp nhỏ quá".
Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng tỉnh những tình cảm tốt lành trong Hương Thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng ban đầu "Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi… đừng có về đây nữa" đến chỗ ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: "Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc". Sau khi nghe Hương Thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình, Trần Văn Sửu chỉ muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu mình dưới dạng người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha bất hạnh. Sửu trở về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng lặng lẽ ra đi bấy nhiêu khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được sống sung sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ khát vọng cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu vui lòng "lãnh các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu có, sung sướng thì thôi". Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi quyết tâm không về nữa.
Bằng một đoạn văn đọc thoại nội tâm: "Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ nữa", một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh một tình huống éo le. Và bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để "quên hết việc cũ", "hết buồn rầu, cực khổ", chết để khỏi liên lụy đến con!
Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân vật hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình ("Anh ta nghĩ như vậy rồi nhắm mắt lại"…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh của người vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can ông. Điều đó làm ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ. Mặt khác hình ảnh thơ ngây của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông đau đớn trong lòng, trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương thiện và tình thương con cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân bản. Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, song lòng lương thiện, đức vị tha bao dung, tình thương con của người cha đó vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời nói, mục đích sáng tác nhằm giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là những điều chúng ta gặp trong văn học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm trạng.
Đó là nỗi khát khao tình cảm của một người cha đối với con, là sự giãi bày những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt 11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng con. Nhưng chưa gặp con là đã gặp lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam bộ đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo tạo tình huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.
Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như 11 năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu nghĩa. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người cha đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng choán ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát được sống trong tình thương yêu của người cha.
Tình nghĩa sâu nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc động thật thấm thía. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện ở một phía (Sửu) mà đến từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết tình thương cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động. Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: "Cha tôi đi đâu rồi ông ngoại?". Đĩnh đạc và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu chạy riết theo, tiếng nói cất thêm từ niềm sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao mà xúc động: "Ai đó? Phải cha đó không, cha?". Trong khi Trần Văn Sửu muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu cha chân thành, đã cứu cha trở về với cuộc sống.
Cảnh cha con gặp nhau thật cảm động, sinh động và giản dị: "Thằng Tí chạy riết lại nắm lấy tay cha nó, dòm sát trong mặt rồi nhìn mà ôm cứng trong lòng mà nói: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu giữ vậy". Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết". Khi gặp được cha rồi, Tí nhất quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: cha đi đâu con theo đó", "Hễ cha đi thì con đi theo", "Đi theo đặng mà làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về". Mặc dù đã mười một năm không gặp cha, không được cha âu yếm, nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy. Như vậy, Trần Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí cũng vì cha mà đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại mình… Ấy chính là cái "nghĩa nặng" của tình cha con thể hiện ở đây.
Câu trả lời của bạn
Dàn ý chi tiết Cảm nghĩ về tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
Câu trả lời của bạn
1/ Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nội dung đoạn trích
2/ Thân bài
3/ Kết bài
Phân tích tình cảm cha con trong tác phẩm Cha con nghĩa nặng.
Câu trả lời của bạn
Hồ Biểu Chánh - một nhà văn có sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống và con người Nam Bộ, được xem là "một trong số ít những người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại". "Cha con nghĩa nặng" là tác phẩm thứ 15 của Hồ Biểu Chánh để lại dấu ấn đậm về cuộc sống và tính cách con người Nam Bộ, đặc biệt với đoạn trích được học, người đọc cảm nhận được tình cảm cha con thiêng liêng, nặng tình nặng nghĩa giữa hai nhân vật Sửu và Tí, đó chính là một giá trị đạo đức tốt đẹp của con người.
Trần Văn Sửu vốn là một nông dân hiền lành, chăm chỉ, yêu vợ thương con nhưng không may lấy phải người vợ xấu nết, đã ngoại tình còn giữ chồng cho nhân tình chạy, không có ý ăn năn hối lỗi, trong cơn tức giận Sửu xô vợ, không may vợ ngã xuống phản chết ngay. Phải chịu án bỏ tù nhưng nghĩ đến tương lai các con nên Sửu đã bỏ trốn, mọi người thì tưởng anh đã nhảy sông tự tử, sau mười mấy năm lẩn tránh đi biệt xứ, Sửu lẻn về thăm con, biết cuộc sống của con đang êm ấm hạnh phúc và nghĩ rằng sự có mặt của mình chỉ mang đến nhiều bất lợi nên anh lại đành ra đi. Chạy đến cầu Mê Tức, vì mệt mà anh ngồi dựa cầu nghỉ, anh nghĩ đến cái chết để bảo toàn hạnh phúc cho con cái "Bây giờ mình còn sống nữa làm gì...chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu cực khổ nữa". Nghĩ về cái chết của vợ, nhớ lại cảnh gia đình ngày trước mà trong lòng Sửu đau đớn vùng dậy nói lớn "Mấy con ơi! Cha chết nhé. Mấy con ở lại mạnh giỏi, để cha theo mẹ con cho rồi" rồi anh định chui qua cầu tự tử nhưng thằng con trai của anh - thằng Tí đã đến kịp gặp bố. "Thằng Tí chạy riết lại nắm tay cha nó, dòm sát trong mặt mà nhìn, rồi ôm cứng trong lòng...". Gặp được con, nghe tiếng con gọi và câu hỏi của con, Trần Văn Sửu lặng người đi, mất hết trí khôn, chỉ biết đứng xui xị xui lơ, hai cha con ôm nhau mà khóc. Vừa mới gặp được con nhưng vì thương con, lo cho hạnh phúc của con Sửu đã vội giục con về "Con phải về đặng lo cưới vợ", dù thằng Tí có nói đủ kiểu để kéo cha về cùng nhưng chẳng có đường nào cho anh về, "về rồi làng tổng họ đến bắt còn gì?", anh nghĩ đến sự yên ổn và hạnh phúc của con mà chẳng dám đoàn tụ, thà đi cho biệt tích để cho thằng Tí lấy vợ còn con Quyên lấy chồng cho được tử tế.
Trần Văn Sửu là một người cha yêu thương con hết lòng, chấp nhận mọi sự khổ đau, sai trái ngay cả chấp nhận cái chết chỉ đề gìn giữ cuộc sống yên ổn, hạnh phúc của các con. Số phận bất hạnh của anh như làm nền cho vẻ đẹp của một người nông dân chất phác, bình dị và giàu tình cảm, sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời vì con. Thằng Tí tuy có tuổi thơ chẳng mấy đẹp đẽ, côi cút bơ vơ nhưng nó lại có được những suy nghĩ sáng dạ, không oán trách cha mình mà lại càng thương cha. Nó chạy theo và gặp cha trên cầu nó vui mừng khôn xiết, ôm chặt lấy cha mà khóc, đó là nỗi nhớ thương thiếu thốn tình cha suốt mười mấy năm nó phải chịu đựng. Gặp được cha, thấu hiểu những nỗi khổ, nỗi bất hạnh của cha, Tí sẵn sàng bỏ lại hạnh phúc của mình để xin đi theo chăm sóc cho cha, những suy nghĩ của Tí lúc này chỉ hướng đến cho cha, lo lắng cho cha, không tìm cách cho cha về đoàn tụ với gia đình thì tìm cách đi theo cha "Đi theo đặng làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về", "Con không đành để cha đi một mình. Con muốn theo cha mà kiếm chỗ cho cha ăn ở yên nơi rồi con sẽ về". Thằng Tí vì thương cha mà cố gắng tìm mọi cách thuyết phục cha nghe theo cách của nó, nó cảm thấy suốt bao năm cha đã chịu đủ mọi cực khổ rồi, bây giờ nó lại để cha chịu đựng một mình thì cực cho cha quá, mà nó cũng bất hiếu quá. Sự hiếu thảo, ân cần và chu đáo trong từng hành động, suy nghĩ của thằng Tí cho thấy nó là một đứa con hiếu thảo, sẵn sàng gác lại hạnh phúc riêng của mình để chăm lo phụng dưỡng cho cha.
Qua đoạn trích "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh, ta thấy được rõ những mâu thuẫn: giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con và tình con thương cha. Chính những mâu thuẫn ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc tình cảm cha con sâu nặng, cha sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của con, còn con sẵn sàng gạt đi hạnh phúc riêng tư để chăm sóc và báo hiếu cho cha.
Hoàn cảnh ra đời Cha con nghĩa nặng.
Câu trả lời của bạn
Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958), tên khai sinh là Hồ Văn Trung, quê ở xã Bình Thành huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Kiên Giang). Trong gần 50 năm cầm bút cần mẫn sáng tác, Hồ Biểu Chánh đã để lại một số lượng sáng tác khá lớn. Ông thành công nhất ở thể loại tiểu thuyết. Một số tác phẩm tuy còn hạn chế về mặt tư tưởng nhưng nhìn chung ông đã đóng góp công sức tích cực vào việc hình thành thể loại tiểu thuyết của dân tộc ta trong chặng đường phôi thai đầu tiên. Cha con nghĩa nặng là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh.
Trong bối cảnh vận động, phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của tiểu thuyết Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng trước 1930, tác phẩm Cha con nghĩa nặng ra đời (1929).
Tác phẩm viết về cảnh ngộ bất hạnh của gia đình một người nông dân tên là Trần văn Sửu. Do vô tình phạm tội giết vợ Trần Văn Sửu đã phải bỏ trốn, để lại hai đứa con thơ là Quyên và Tí cho bố vợ là hương thị Tào nuôi. Thằng Tí và con Quyên đều được mọi người thương yêu. Sống vất vả cực nhọc nơi đất khách quê người, Trần Văn Sửu không nguôi nhớ về các con. Và anh trở về vào đúng lúc các con đang chuẩn bị xây dựng gia đình. Đoạn trích kể về cuộc trở về này.
Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo, sự cảm thông đối với bao kiếp người bị đọa đày đau khổ. Lên án cái xấu xa tàn ác, ngợi ca đạo lý làm người.
Dàn ý chi tiết Phân tích về đoạn trích Cha con nghĩa nặng.
Câu trả lời của bạn
1/ Mở bài
Giới thiệu tác giả và đoạn trích, khái quát nội dung đoạn trích: Đoạn trích “Cha con nghĩa nặng” thuộc nửa sau Chương IX trong cuốn tiểu thuyết thứ 15 của Hồ Biểu Chánh. Nhan đề của câu chuyện đã làm rõ nội dung trong tác phẩm, câu chuyện có nhiều tình huống éo le và cảm động
2/ Thân bài
3/ Kết bài: Ý nghĩa về hai nhân vật Trần Văn Sửu và thằng Tí: Trước bi kịch gia đình, tình nghĩa cha con vẫn son sắt sâu nặng, hai cha con ông Sửu là hiện thân của bao phẩm chất tốt đẹp trong con người nông dân miền Nam từ xưa tới nay
Cảm nghĩ về tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh.
Câu trả lời của bạn
Hồ Biểu Chánh là một trong những tác giả đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Ông là một tác giả quen thuộc đối với người dân Nam Bộ. Những tiểu thuyết của ông phản ánh chân thực cuộc sống của con người Nam Bộ cũng như những truyền thống đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. “Cha con nghĩa nặng” là một tiểu thuyết tiêu biểu của ông thể hiện tình cảm cha con sâu nặng giữa người cha tên Sửu và người con Tí.
Để làm nổi bật chủ đề về tình nghĩa cha con sâu nặng, tác giả đã tạo nên tình huống truyện với những mâu thuẫn cao trào, giàu kịch tính. Đọc đoạn trích người đọc có thể cảm nhận được số phận éo le của nhân vật Sửu. Đó là một người nông dân thuần phác, yêu vợ, thương con, chăm chỉ hiền lành. Nhưng vì một phút nóng giận, ông vô tình giết vợ, vì thế phải sống chui lủi, đi biệt xứ. Ông chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần, lúc nào cũng sống trong tình cảnh dằn vặt lương tâm. Sống nơi biệt xứ, làm đủ nghề thuê mướn, thay tên đổi họ, nỗi khổ tâm luôn đầy ắp trong lòng Trần Văn Sửu, ông nhớ khôn nguôi và da diết những đứa con của mình.
Ông đã trở về với mong muốn là được gặp các con của mình nhưng điều đó sẽ làm liên lụy tới các con của ông. Hai người con Quyên và Tí đều đều chuẩn bị lấy vợ, lấy chồng. Sự xuất hiện của ông chắc chắn sẽ khiến hạnh phúc của các con bị ảnh hưởng. Vì thế ông quyết tâm ra đi dù chưa gặp được các con và có ý định nhảy sông tự tử. Các nhân vật đứng trước trở ngại rất lớn. Nếu cha trở về thì sẽ bị làng tổng bắt, các con sẽ bị vạ lây. Nếu con theo cha thì sẽ phải chịu nhiều khổ cực và không chăm sóc được cho ông ngoại. Hai cha con bàn ngược tính xuôi mãi cuối cùng cũng đưa ra được quyết định. Đẩy nhân vật vào tình huống éo le, khó xử tác giả đã khắc họa được tình cảm cha con sâu sắc, tăng tính thuyết phục cho câu chuyện.
Trước hết, qua đoạn trích chúng ta có thể thấy được tình cảm sâu sắc của người cha Trần Văn Sửu dành cho con của mình. Sau bao năm tháng biệt xứ với nỗi nhớ con khôn nguôi người cha tìm về quê hương với mong muốn được gặp lại những đứa con của mình để giãi bày với chúng. Gặp lại bố vợ, Sửu chấp nhận tất cả những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Ông nói với cha vợ những lời đau đáu từ trái tim, chứa chan những giọt nước mắt của sự khổ đau, làm hiện lên tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con đến cháy lòng làm cho ông trở nên kiên quyết: “xăm xăm bước đi về cửa”, “lột nón xuống mà cầm trên tay”.
Cũng chính vì thương con mà ông trở nên mềm yếu “cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng…” rồi khóc rấm rứt. Qua lời than của Sửu chúng ta có thể thấy được cuộc đời đầy éo le khổ cực của người cha và tấm lòng thương nhớ con da diết. Dòng cảm xúc trào dâng khiến ông không kiềm chế được đã thốt lên thành lời: “Con thương sắp nhỏ quá”, “Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi”, “Con nhớ sắp nhỏ quá”. Và chính tấm lòng yêu thương con vô bờ của Sửu đã làm lay động những tình cảm tốt đẹp trong Hương Thị Tào. Từ chỗ mắng nhiếc lúc ban đầu, Hương Thị Tào lại nghẹn ngào xúc động cùng Sửu. Sau khi nghe cha vợ nói các con vẫn rất thương mình, Sửu muốn gặp chúng dù phải ẩn mình dưới hình dạng thổ dân. Chi tiết này cho thấy hình ảnh một người cha đầy bất hạnh. Ông trở về nhà với nỗi khao khát gặp con bao nhiêu thì lại sẵn sàng lặng lẽ ra đi bấy nhiêu khi mà hay tin các con hiểu được lòng mình và chúng chuẩn bị có được hạnh phúc bên cạnh những người thương yêu.
Sự trở về của ông chắc chắn sẽ làm liên lụy tới chúng. Vì vậy ông sẵn sàng từ bỏ khao khát gặp lại con, quyết tâm dứt áo ra đi để “miễn là con được giàu có, sung sướng thì thôi”. Ông ra đi và mang theo ý định về cái chết, chết để “quên hết việc cũ” , “hết buồn rầu, cực khổ”, chết để khỏi liên lụy tới con. Như vậy, có thể thấy được Trần Văn Sửu là hiện thân của những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Một con người thiện lương nhưng phải sống một cuộc đời bất hạnh, một người cha thương con, đau đáu nỗi đau nhớ con, mong muốn cho con được hạnh phúc, sống vì con và chết cũng vì con.
Bên cạnh tình cảm sâu nặng người cha dành cho con thì đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa của con đối với cha sau nhiều năm xa cách. Thời gian không thể làm xóa nhòa đi bóng hình người cha trong tâm hồn Tí. Chính vì thế khi gặp lại cha, Tí khao khát được sống trong tình yêu thương của cha. Cuộc đối thoại dưới đêm trăng của ông ngoại và Sửu đã bị Tí nghe thấy, nó hiểu và thương cha hơn. Chính vì thương cha, hiểu cha và muốn gắn bó với cha Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động. Nó hỏi ông ngoại về cha, chạy theo cha khi Sửu bỏ đi, cất tiếng gọi tha thiết từ một trái tim khao khát tình phụ tử: “Ai đó? Phải cha đó không cha?” Khi Trần Văn Sửu muốn kết thúc cuộc đời thì Tí đã đến với tấm lòng yêu thương cha chân thành, cứu Sửu trở về với cuộc sống. Cảnh cha con nhà Tí gặp nhau sao mà giản dị, cảm động đến thế! “ Thằng Tí chạy lại nắm riết lấy tay cha nó…” Khi gặp được cha rồi, nó chẳng rời cha nửa bước, kiên quyết cha đi đâu thì sẽ theo đó: “Hễ cha đi thì con đi theo”. Dù xa cách nhiều năm nhưng giữa cha con Tí có một sợi dây gắn kết bền chặt, để khi gặp lại, tình cha con lại đong đầy như thế! Vì con cha muốn sống, vì cha con quên đi hiện tại của mình. Đó chính là nghĩa nặng của tình cha con.
“Cha con nghĩa nặng” là một cuộc gặp gỡ đầy xúc động về tình cha con. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện đầy mâu thuẫn cao trào tác giả đã thành công khi khắc họa tình cảm sâu nặng giữa cha con Trần Văn Sửu. Đó là tình cảm sâu đậm, thiêng liêng và bất diệt. Đoạn trích còn đặc biệt thành công khi tác giả sử dụng ngôn ngữ rất bình dị, gần gũi, đậm chất con người Nam Bộ.
Hướng dẫn soạn bài " Cha con nghĩa nặng" - Hồ Biểu Chánh - Văn lớp 11
Câu trả lời của bạn
1. Tác giả.
– Hồ Biểu Chánh là một nhà nho một nhà văn có nhiều đóng góp lớn lao cho nền văn học của Việt Nam.
– Ông là một tác giả có những sáng tác đều đặn, cần mẫn chăm chỉ trong những công việc sáng tác của mình.
2. Tác phẩm.
– Cha Con Nghĩa Nặng: là tác phẩm thứ 15 của Hồ Biểu Chánh, ông có những đóng góp lớn lao và thuộc những đề tài đa dạng.
3. Bố cục:
Chia làm 2 phần:
Phần 1: Từ đầu đến con hết quấy nữa.
Phần 2: Còn lại.
4. Tìm hiểu văn bản.
1. Tóm tắt truyện.
Câu chuyện đã kể về cha con của Trần Văn Sửu một người cha nặng ân tình với con, ông đã lẻn về thăm con những rồi sợ liên lụy tới con lên đã định nhảy sông tự tự, những sự đợi chờ dõi theo cuộc sống của con và ông ngoại đã làm cho ông có thêm một chút niềm tin để sống, ông mong chờ và mong sẽ có ngày gặp con. Trần văn Tý là một người con có hiếu không ghét bỏ mà hết mực yêu thương cha, bài đã thể hiện một tình cảm cha con sâu nặng và mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
2. Phân tích tình nghĩa cha con trong đoạn trích:
– Tình cảm của cha con thật sâu nặng đã thể hiện trong bài viết: Khi dõi theo những hoạt động sinh hoạt và cuộc sống của con Trần văn Sửu đã gặp con, Trần Văn Sửu gật mình ngó đầu vô, rồi day mà ngó. Thắng tý thì chạy xiết lại nắm tay của cha nó.
– Những hình ảnh được miêu tả thể hiện tình cảm gắn bó của hai cha con, Tý dòm sát mặt vào nhìn, rồi ôm cứng trong lòng mà nói, cha ơi cha, những lời nói nghẹ ngào thể hiện sự có hiếu và yêu quý đối với người cha của mình, cha cha chạy đi đâu vậy mong muốn người cha sẽ quay lại ở bên mình.
– Hình ảnh cha ôm người con khóc thể hiện người cha cũng rất yêu quý người con, mong muốn được sống bên con những ông mang mặc cảm, không dám trở về.
– Những lời giao tiếp hội thoại của hai người đã thể hiện những tình cảm cha con rất gắn bó với nhau, hai cha con biểu hiện cho tình yêu lớn lao của cha dành cho con, và tình cảm có hiếu biết yêu thương quý trọng người cha của mình của nhân vật Tý.
– Hình ảnh đó được miêu tả để thể hiện tình cảm của hai người thật sâu nặng tác giả đã viết lên những chi tiết hết sức sinh động và thu hút được lòng người.
3. Để làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài về tình cha con nghĩa nặng tác giả đã tạo nên những mâu thuẫn để làm tăng thêm những tình cảm sâu sắc đó:
– Ông luôn mong muốn người con của mình được hạnh phúc, ông khuyên người con của mình phải tìm kiếm lấy hạnh phúc của riêng mình, khi người con nói lại và muốn chăm sóc người cha thì ông đã có những hành động khuyên ngăn và dứt khoát muốn cho con của mình được hạnh phúc: Con phải tìm lấy hạnh phúc của riêng mình, con đừng cãi lời của cha…
– Những tình huống đó làm tăng tính nghệ thuật trong bài viết: Với tình cảm sâu đậm đó người cha luôn mong ước cho người con, nhưng sự hiếu thảo của người con lại làm cho những mâu thuẫn giữa hai người xuất hiện.
– Việc tác giả tạo nên mâu thuẫn đó đã làm tăng sức thuyết phục và tặng lên tình cảm quý của người con và người cha.
4. Tính cách của người Nam Bộ:
– Nam Bộ là một vùng rất giàu tình yêu thương, thông qua nhân vật tình cha con sâu nặng chúng ta có thể thấy được tình yêu đó xuất hiện trong bài viết này. Tình yêu của người cha đối với người con đã tạo nên những cung bậc cảm xúc lớn, nhưng tình cảm chân thật thu hút được sự hấp dẫn và sâu lắng trong tác phẩm.
– Con người Nam Bộ hiện lên trong không khí chan hòa và đầy cảm xúc của con người.
5. Nghệ thuật kể chuyện:
– Tác giả đã kể lại câu chuyện theo một trình tự thời gian nó tạo lên những cảm xúc sâu lắng trong con người của tác giả, cách kể chuyện hấp dẫn cùng với cách sử dụng ngôn ngữ hấp dẫn, mộc mạc đã tạo nên một phong cách mới mẻ cho bài bài này.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *