Nội dung bài học cung cấp cho các em khái niệm về một số vật liệu polimer: Chất dẻo, cao su, tơ, vật liệu Compozit và keo dán. Thông qua tiết học các em sẽ nắm chắc thêm các thành phần cấu tạo cũng như tính chất, ứng dụng của chúng.
Polime | Phương pháp tổng hợp | Tính chất | Ứng dụng |
Polietilen (PE)
| trùng hợp CH2=CH2 | mềm dẻo, tonc>110oC, tương đối trơ | làm màng mỏng, bình chứa, túi đựng |
Poli(vinyl clorua)(PVC)
| trùng hợp CH2=CHCl | chất vô định hình, cách điện tốt, bền với axit | làm vật liệu điện, ống dẫn nước, vải che mưa, da giả |
Poli(metyl metacrylat) (PMM)
| trùng hợp CH2=C(CH3)COOCH3 | trong suốt, cho ánh sáng truyền qua tốt | chế tạo thủy tinh plexiglas |
Poli(phenol-fomanđehit) PPF + Nhựa novolac (mạch không phân nhánh) + Nhựa rezol (mạch không phân nhánh có một số nhóm -CH2OH còn tự do ở vị trí số 2 hoặc 4) + Nhựa rezit (cấu trúc mạng không gian) | + đun nóng hh fomanđehit và phenol lấy dư với xt axit + đun nóng hh phenol và fomanđehit theo tỉ lệ mol 1:1,2 với xúc tác kiềm + đun nóng nhựa rezol ở 150oC | + Rắn, dễ nóng chảy, dễ tan trong một số dm hữu cơ + rắn, dễ nóng chảy, dễ tan trong một số dm hữu cơ + không nóng chảy, không tan trong nhiều dm hữu cơ | + sản xuất sơn, vecni, … + sản xuất sơn, keo và nhựa rezit + chế tạo vỏ máy, các dụng cụ cách điện, … |
- Tơ là vật liệu polime hình sợi dài và mảnh với độ bền nhất định.
Tơ thiên nhiên: bông, len, tơ tằm
Tơ hóa học:
Tơ tổng hợp (tơ poliamit, vinylic)
Tơ nhân tạo (tơ visco, tơ xenlulozơ axetat)
Tơ | Phương pháp tổng hợp | Tính chất | Ứng dụng |
Tơ nilon-6,6 | trùng ngưng hexametylenđiamin và axit ađipic | dai, mềm mại óng mượt, ít thấm nước, kém bền nhiệt axit và kiềm | dệt vải may mặc, vải lót săm lốp xe, bện là dây cáp, dây dù, đan lưới |
Tơ lapsan | tổng hợp từ axit terephtalic và etylen glicol | bền về mặt cơ học, bền với nhiệt, axit, kiềm | dệt vải may mặc |
Tơ nitron (olon) | trùng hợp từ vinyl xianua | dai, bền với nhiệt, giữ nhiệt tốt | dệt vải may quần áo ấm hoặc bện thành sợi đan áo rét |
Tơ clorin | clo hóa PVC | bền vững về mặt hóa học và đặc biệt không cháy | chế tạo vải bọc và quần áo bảo hiểm |
Mắt xích cơ sở: isopren có cấu hình sis
Tính chất vật lí: đàn hồi, không dẫn nhiệt, điện, không thấm nước, khí, không tan trong nước, etanol
Tính chất hóa học: có thể tham gia phản ứng ứng cộng dặc biệt tác dụng với S tạo cao su lưu hóa
Cao su lưu hóa có tính đàn hồi, chịu nhiệt, lâu mòn, khó tan trong dm hơn cao su không lưu hóa
Tạo cầu nối -S-S- giữa các mạch phân tử cao su tạo mạng không gian
Vật liệu polime tương tự cao su thiên nhiên, thường được điều chế từ các ankađien bằng pư trùng hợp
Cao su buna: Trùng hợp buta-1,3-đien với xt Na → cao su buna. Cao su buna có tính đàn hồi và độ bền kém cao su thiên nhiên.
Cao su buna-S: đồng trùng hợp buta-1,3-đien với stiren
Cao su buna-N: đồng trùng hợp buta-1,3-đien với nitrinacrilo
Cao su isopren trùng hợp isopren
Cao su cloropren và floropren bền với dầu mỡ hơn cao su thiên nhiên.
- Vật liệu có khả năng kết dính hai mảnh vật liệu giống nhau hoặc khác nhau mà không làm biến đổi bản chất các vật liệu được kết dính.
Theo bản chất hóa học
Keo dán hữu cơ
Keo dán vô cơ
Theo dạng keo
keo lỏng
keo nhựa dẻo
keo bạng bột hay bản mỏng
Keo epoxi
Keo ure-fomanđehit
Nhựa vá xăm
Keo hồ tinh bột
Cho các loại vật liệu polime sau: tơ nilon -6,6; tơ axetat; tơ visco; tơ olon; tơ lapsan; tơ tằm; bông; nhưạ novolac; keo ure -fomanđehit. Tổng số loại vật liệu polime có chứa N trong thành phần phân tử là:
Các polime có chứa N trong thành phần gồm: nilon-6,6; tơ olon; tơ tằm; keo ure - fomanđehit.
⇒ có 4 polime thỏa mãn.
Cho các câu sau:
(1) PVC là chất vô định hình.
(2) Keo hồ tinh bột được tạo ra bằng cách hòa tan tinh bột trong nước.
(3) Poli(metyl metacrylat ) có đặc tính trong suốt, cho ánh sáng truyền qua.
(4) Tơ lapsan được tạo ra do phương pháp trùng hợp.
(5) Vật liệu compozit có độ bền, độ nhịu nhiệt tốt hơn polime thành phần.
(6) Cao su thiên nhiên không dẫn điện, có thể tan trong xăng, benzen và có tính dẻo.
(7) Tơ nitron bền và giữ nhiệt tốt nên thường được dùng để dệt vải may áo ấm.
Số nhận định trên Đúng hay Sai?
Có 3 nhận định không đúng: (2), (4), (6).
(2) Keo hồ tinh bột được tạo ra bằng cách hòa tan tinh bột trong nước.
→ Khi nấu tinh bột thì mới thành hồ tinh bột được (cần phải có nhiệt độ)
(4) Tơ lapsan được tạo ta từ phản ứng trùng ngưng.
(6) Cao su thiên nhiên không dẫn điện, có thể tan trong benzen, trong xăng và có tính dẻo.
→ Cao su thiên nhiên có tính đàn hồi.
Tơ được sản xuất từ xenlulozơ là tơ nào trong 4 loại tơ sau: to tằm, tơ capron, tơ nilon-6,6, tơ visco
- Các loại tơ được sản xuất từ xenlulozơ:
· Tơ visco: hòa tan xenlulozơ trong NaOH loãng và CS2 thu được dung dịch keo rất nhớt là tơ visco.
· Tơ axetat: hòa tan xenlulozơ với anhiđrit axetic (có H2SO4 đặc) thu được xenlulozơ điaxetat và xenlulozơ triaxetat.
Trùng hợp 1,50 tấn etilen thu được m tấn polietilen (PE) với hiệu suất phản ứng bằng 80%.Giá trị của m là:
\(nC{H_2} = C{H_2} \to {( - C{H_2} - C{H_2} - )_n}\)
Áp dụng định luật bảo toàn khối lượng: metilen p/ứ = mPE
Với hiệu suất là 80% \(\Rightarrow {m_{PE}} = 80\% .{m_{etilen}} = 0,8.1,5 = 1,2\) (tấn)
Cứ 2,844 g cao su Buna S phản ứng hết với 1,731g Br2 trong CCl4.Tỉ lệ mắt xích buta-1,3-đien và Stiren trong loại cao su đã cho là:
Buta-1,3-đien khi trùng hợp vẫn còn một nối đôi, nên có tham gia phản ứng cộng:
-CH2-CH=CH-CH2 : Mắt xích buta-1,3-đien
Coi như cao su Buna S đã cho là hỗn hợp gồm có:
\(\begin{align*} \begin{cases} n_{-C_{4}H_{6}-}=n_{Br_{2}} &= \frac{1.731}{160}=0,108 \\ n_{-C_{8}H_{8}-}&= \frac{2,844-54.0,108}{104}=0,0216 \end{cases} \end{align*}\)
\(\frac{n_{-C_{4}H_{8}-}}{n_{-C_{8}H_{8}-}}=\frac{1}{2}\)
Sau bài học cần nắm:
Bài kiểm tra Trắc nghiệm Hóa học 12 Bài 14có phương pháp và lời giải chi tiết giúp các em luyện tập và hiểu bài.
Polime X là chất rắn trong suốt, cho ánh sáng truyền qua tốt nên được dùng chế tạo thủy tinh hữu cơ plexiglas. Monome tạo thành X là:
Loại vật liệu polime nào sau đây có chứa nguyên tố Nitơ:
Nhận định sơ đồ sau: \(CH_{4}\rightarrow X\rightarrow Y\rightarrow Z\rightarrow\) Cao su Buna . Trong đó Y là:
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể hệ thống lại nội dung bài học thông qua phần hướng dẫn Giải bài tập Hóa học 12 Bài 14.
Bài tập 1 trang 72 SGK Hóa học 12
Bài tập 2 trang 72 SGK Hóa học 12
Bài tập 3 trang 72 SGK Hóa học 12
Bài tập 4 trang 72 SGK Hóa học 12
Bài tập 5 trang 73 SGK Hóa học 12
Bài tập 6 trang 73 SGK Hóa học 12
Bài tập 1 trang 99 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 3 trang 99 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 4 trang 99 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 5 trang 99 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 2 trang 99 SGK Hóa 12 nâng cao
Bài tập 14.1 trang 30 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.2 trang 30 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.3 trang 30 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.4 trang 31 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.5 trang 31 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.6 trang 31 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.7 trang 31 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.8 trang 31 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.9 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.10 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.11 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.12 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.13 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.14 trang 32 SBT Hóa học 12
Bài tập 14.15 trang 32 SBT Hóa học 12
Trong quá trình học tập nếu có bất kì thắc mắc gì, các em hãy để lại lời nhắn ở mục Hỏi đáp để cùng cộng đồng Hóa DapAnHay thảo luận và trả lời nhé.
Polime X là chất rắn trong suốt, cho ánh sáng truyền qua tốt nên được dùng chế tạo thủy tinh hữu cơ plexiglas. Monome tạo thành X là:
Loại vật liệu polime nào sau đây có chứa nguyên tố Nitơ:
Nhận định sơ đồ sau: \(CH_{4}\rightarrow X\rightarrow Y\rightarrow Z\rightarrow\) Cao su Buna . Trong đó Y là:
Trùng hợp m tấn etilen thu được 1,2 tấn polietilen (PE) với hiệu suất phản ứng bằng 75%. Giá trị của m là:
Phân tử khối trung bình của cao su tự nhiên và thủy tinh hữu cơ plexiglas là 36720 và 47300 dvC. Số mắt xích trung bình trong công thức phân tử mỗi chất trên là:
Polime nào sau đây được tổng hợp từ phản ứng trùng hợp?
Dãy nào sau đây chỉ gồm các polime được dùng làm chất dẻo
Clo hoá PVC thu được một polime chứa 63,93% clo về khối lượng, trung bình 1 phân từ clo phản ứng với k mắt xích trong mạch PVC. Giá trị của k là
Sản phẩm hữu cơ của phản ứng nào sau đây không dùng để chế tạo tơ tổng hợp?
Các đồng phân ứng với công thức phân tử C8H10O (đều là dẫn xuất của benzen) có tính chất : tách nước thu được sản phẩm có thể trùng hợp tạo polime, không tác dụng được với NaOH. số đồng phân ứng với công thức phân tử C8H10O, thoả mãn tính chất trên là
Kết luận nào sau đây không hoàn toàn đúng:
A. Cao su là những polime có tính đàn hồi
B. Vật liệu compozit có thành phần chính là polime
C. Nilon-6,6 thuộc loại tơ tổng hợp
D. Tơ tằm thuộc loại tơ thiên nhiên
Tơ tằm và nilon-6,6 đều:
A. Có cùng phân tử khối.
B. Thuộc loại tơ tổng hợp.
C. Thuộc loại tơ thiên nhiên.
D. Chứa các loại nguyên tố giống nhau ở trong phân tử.
a) Có những điểm gì giống nhau và khác nhau giữa các vật liệu polime: chất dẻo, tơ, cao su và keo dán?
b) Phân biệt chất dẻo và vật liệu compozit.
Viết các phương trình hóa học của các phản ứng tổng hợp:
a) PVC, poly (vinyl axetat) từ etilen.
b) Polibutadien và polime đồng trùng hợp giữa butadien và stiren từ butan và etylbenzen.
Phân tử khối trung bình của poli (hexametylen ađipamit) là 30 000, của cao su tự nhiên là 105 000. Hãy tính số mắt xích (trị số n) gần đúng trong công thức phân tử của mỗi loại polime trên?
Cao su lưu hóa có 2% lưu huỳnh về khối lượng. Khoảng bao nhiêu mắt xích isopren có một cầu đisunfua - S-S-? Giả thiết rằng S đã thay thể cho H ở cầu metylen trong mạch cao su.
Nhóm các vật liệu được chế tạo từ các polime trùng ngưng là:
A. Cao su: nilon-6,6; tơ nitron.
B. Nilon-6,6, tơ lapsan, thủy tinh plexiglas.
C. Tơ axetat, nilon-6,6.
D. Nilon-6,6, tơ lapsan, nilon-6.
a) Viết phương trình hóa học của các phản ứng từ metan điều chế ra: vinyl clorua, vinyl axetat, acrilonitrin (vinyl xianua, CH2=CH−CN) và metyl acrylat (CH2=CHCOOCH3).
b) Hãy nêu một thí dụ (có viết phương trình phản ứng) để chứng tở rằng có thể đi từ etilen điều chế các monome trên với giá thành thấp hơn. Giải thích?
c) Viết phương trình phản ứng trùng hợp mỗi monone ở trên và gọi tên polime tạo thành.
Phân tử khối trung bình của poli (hexametylen adipamit) để chế tạo nilon 6,6 là 30.000, của cao su tự nhiên là 105.000. Hãy tính số mắt xích (trị số n) trung bình trong phân tử của mỗi loại polime trên.
Cao su lưu hóa chứa 2% lưu huỳnh. Hãy tính xem khoảng bao nhiêu mắt xích isopren có một cầu nối đisunfua -S-S-, giải thiết rằng S đã thay thế cho H ở nhóm metylen trong mạch cao su.
a. Nêu những điểm giống và khác nhau về tính chất giữa các vật liệu polime : Chất dẻo, tơ, cao su và keo dán?
b. Phân biệt chất dỏe và vật liệu compozit
Trong các nhận xét dưới đây, nhận xét nào không đúng ?
A. Một số chất dẻo là polime nguyên chất.
B. Đa số chất dẻo, ngoài thành phần cơ bản là polime còn có các thành phần khác.
C. Một số vật liệu compozit chỉ là polime.
D. Vật liệu compozit chứa polime và cá¿ thành phần khác.
Tơ nilon-6,6 thuộc loại
A. tơ nhân tạo.
B. tơ bán tổng hợp.
C. tơ thiên nhiên.
D. tơ tổng hợp.
Tơ visco không thuộc loại
A. tơ hoá học.
B. tơ tổng hợp.
C. tơ bán tổng hợp.
D. tơ nhân tạo.
Tơ nitron không thuộc loại
A. Tơ vinylic
B. Tơ tổng hợp
C. Tơ hóa học
D. Tơ nhân tạo
Trong các ý kiến dưới đây, ý kiến nào đúng
A. Đất sét nhào nước rất dẻo, có thể ép thành gạch, ngói; vậy đất sét nhào nước là chất dẻo.
B. Thạch cao nhào nước rất dẻo, có thể nặn thành tượng, vậy đó là một chất dẻo.
C. Thủy tinh hữu cơ rất cứng và bền với nhiệt; vậy đó không phải chết dẻo.
D. Tính dẻo của chất dẻo chỉ thể hiện trong những điều kiện nhất định; ở các điều kiện khác, chất dẻo có thể không dẻo.
Poli(metyl metacrylat) có công thức cấu tạo là
Polime -(C6H5(-OH)-CH2)n là thành phần chủ yếu của
A. nhựa rezit.
B. nhựa rezol.
C. nhựa novolac
D. teflon.
Nhựa phenol-fomandehit được điều chế bằng cách đun nóng phenol với dung dịch
A. CH3COOH trong môi trường axit.
B. CH3CHO trong môi trường axit.
C. HCOOH trong môi trường axit.
D. HCHO trong môi trường axit.
Tơ nitron được tổng hợp từ chất nào sau đây
A. Acrilonitrin
B. Hexametylendiamin
C. Axit adipic
D. Axit £-aminocaproic
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Polytetrafloetylen là "kẻ sinh sau" trong thế giới các chất dẻo. Hợp chất này được chính thức sản xuất chỉ mới khoảng 30 năm trước đây. Thế nhưng hợp chất đã nhanh chóng được tôn là "vua chất dẻo". Vì sao vậy?
Polytetrafloetylen có nhiều tính chất ưu việt mà các loại chất dẻo khác không có: Hợp chất không bị giòn trong không khí lỏng. Không bị mềm đi trong nước đun sôi. Từ nhiệt độ thấp -269,3°C chỉ lớn hơn nhiệt độ 0 K (nhiệt độ tuyệt đối) 4°C cho đến nhiệt độ cao 250°C không hề có sự thay đổi trạng thái. Polytetrafloetylen rất bền với các tác nhân gây ăn mòn, cho dù đó là các axit, dung dịch kiềm đậm đặc cũng như các tác nhân oxy hoá mạnh cũng không gây được tác dụng gì. Tính bền hoá học của polytetrafloetylen vượt qua thủy tinh gốm, thép không gỉ, vàng, bạch kim. Bởi vì thuỷ tinh, thép không gỉ, vàng, bạch kim đều hoà tan trong cường thủy đun sôi, còn polytetrafloetylen có đun sôi trong cường thủy hàng chục giờ đồng hồ cũng trơ nguyên. Polytetrafloetylen không bị ngấm nước, không bị trương trong nước. Ngoài ra polytetrafloetylen là chất cách điện tốt, không chịu ảnh hưởng của điện từ trường, không có bất kỳ sự thay đổi nào theo nhiệt độ.
Do polytetrafloetylen có những tính năng quý giá như vậy nên được người ta rất coi trọng. Polytetrafloetylen được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp: Công nghiệp đông lạnh, công nghiệp hoá học, công nghiệp điện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp y dược...
Người ta dùng polytetrafloetylen trong việc chế tạo thiết bị nhiệt độ thấp để sản xuất cácbình đựng không khí lỏng. Trong công nghiệp hoá học, người ta dùng polytetrafloetylen để chế tạo các bình phản ứng chịu ăn mòn, chế tạo vỏ bình ăcquy, làm tấm lọc. Trong công nghiệp điện, người ta dùng polytetrafloetylen làm các lớp vỏ cách điện rất mỏng, với lớp chất cách điện này chỉ cần độ dày 15 micromet là đã có khả năng cách điện tuyệt hảo. Trong công nghiệp y dược, người ta dùng polytetrafloetylen chế tạo xương nhân tạo, làm vật liệu tạo sụn là vật liệu cho ngoại khoa, vì đây là vật liệu vô hại đối với cơ thể con người. Ngoài ra polytetrafloetylen còn dùng để chế tạo rađa, vật liệu thông tin cao tần, thiết bị sóng ngắn. Polytetrafloetylen là chất có màu trắng xám, là hợp chất cao phân tử kết tinh nửa trong suốt, là sản phẩm trùng hợp từ tetrafloetylen. Nguyên liệu cơ bản để sản xuất hợp chất tetrafloetylen là trifloetan và hyđroforua. Các chất dẻo thông thường do các nguyên tử cacbon, hyđro và nhiều nguyên tử khác tạo nên, trong polytetrafloetylen không có nguyên tử hyđro mà chỉ có các nguyên tử flo và cacbon. Chính nguyên tử flo trong phân tử đã thay thế nguyên tử hyđro làm cho liên kết giữa các nguyên tử cacbon trong phân tử càng đặc khít, bền chặt hơn, do đó mà chất dẻo polytetrafloetylen mới có được các tính chất ưu việt đã kể trên.
Câu trả lời của bạn
Chất dẻo có nhiều ưu điểm: Đẹp, không bị gỉ, giá thành sản xuất thấp. Chất dẻo có nhiều chủng loại, tạo thành một họ lớn trong vương quốc các vật liệu.
Chất dẻo công trình chủ yếu thuộc các họ polyamit, polyfocmanđehyt, polycacbonat, polyeste, polysunfon... Đại đa số trong chúng thuộc các loại nhựa có tính năng cao. Ví dụ nhựa polycacbonat là chất dẻo trong suốt có tính năng chống va đập cao, có thể bền đến nhiệt độ 145°C nên có thể dùng để chế tạo cửa sổ chắn trên các đầu máy bay siêu thanh.
Polyphenol - focmanđehyt có tính chịu mỏi tốt, có độ cứng cao, hệ số ma sát thấp, nên thường dùng để chế tạo ổ trục, thân trục và các bánh răng nhỏ. Trong đời sống hằng ngày, chất dẻo công trình cũng được sử dụng rộng rãi để chế tạo máy vi tính, máy ghi hình, máy điều hoà nhiệt độ... cùng nhiều thương phẩm cao cấp khác. Phạm vi sử dụng của chất dẻo công trình ngày càng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong phạm vi toàn cầu.
Câu trả lời của bạn
Gọi là chất dẻo hợp kim không có nghĩa là loại chất liệu do chất dẻo và kim loại kết hợp với nhau tạo ra, mà là nói đến hỗn hợp của hai loại chất dẻo trở lên, tạo thành một vật liệu có tính năng mới. Ví dụ, vào những năm 60 của thế kỷ XX có một loại chất dẻo ký hiệu là PPO. Đây là loại chất dẻo có cường độ khá tốt nhưng phải gia nhiệt đến nhiệt độ 210°C mới gia công định hình được. Nhựa polyphenol focmandehyt chỉ có thể gia công ở nhiệt 100°C; nhưng sản phẩm vẫn có nhiều khuyết tật. Do vậy các kỹ thuật viên đã phối hợp hai loại chất dẻo với nhau tạo thành "hợp kim" không chỉ tăng cao được khả năng chịu va đập, không bị vỡ toác mà lại có thể gia công định hình ở nhiệt độ 140°C.
Câu trả lời của bạn
Do trong phân tử luôn có chuyển động, trong khi chuyển động các phân tử nhỏ luôn co kéo lẫn nhau. Do đó phân tử lớn cao su thiên nhiên không phải ở trạng thái dây xích thẳng mà là cuộn rối rắm, nhiều phân tử sẽ tự hợp nhau như một mớ dây hỗn loạn. Vì vậy chúngta có thể tưởng tượng khi ta dùng lực kéo căng, chuỗi phân tử rối rắm này sẽ bị căng ra, khi thôi kéo căng, chuỗi phân tử lại co về trạng thái cũ.
Cao su có tính đàn hồi rất tốt, ngoài việc làm săm lốp các loại xe, người ta còn dùng cao su làm vật chống rung. Trong ô tô, tàu hoả, tàu thuyền, cầu cống đều có dùng cao su làm vật liệu chống rung.
Câu trả lời của bạn
Keo dán epoxy là loại keo có cường độ dính rất cao. Vì trong phân tử keo có chứa gốc epoxy rất linh hoạt, có thể phản ứng với các phân tử trên bề mặt vật cần dán và hình thành các lực liên kết rất bền. Vì vậy người ta có thể dùng keo epoxy để dán nhiều loại vật liệu:
Kim loại, chất dẻo, bê tông... cũng như thủy tinh, gốm, sứ. Vì vậy keo dán epoxy được tặng danh hiệu là keo dán vạn năng. Keo vạn năng không chỉ được dùng trong cuộc sống hằng ngày mà còn được dùng trong sản xuất công nghiệp, như để dán ghép nối các cấu kiện kim loại trong xây dựng, nên keo epoxy còn được gọi là keo xây dựng.
Câu trả lời của bạn
Nói đến “keo dán ép” nghe hơi lạ tai. Nhưng thực ra nó rất quen thuộc với chúng ta. Giấy dán dùng ở văn phòng, băng keo trong, băng cao cứu thương, băng dính cao su... đều thuộc họ keo dán ép. Sở dĩ gọi là keo dán ép vì không cần gia nhiệt, không cần phối hợp với các dung dịch hồ dán khác, chỉ cần dùng tay ép một cái là dính chặt. Đem keo dán ép phủ lên một màng mỏng làm đế ta sẽ có băng keo dán ép.
Câu trả lời của bạn
Ngày nay để hàn kín miệng các hộp giấy, túi giấy người ta thường sử dụng các băng keo dán không khô. Khi cần tạm thời kết thúc nhanh việc bao gói một vật gì đó, người ta thường dùng băng keo dán không khô. Trong phòng thí nghiệm, người ta thường dùng băng keo dán không khô để cố định nhãn chai lọ. Trong các cửa hiệu người ta hay dùng băng keo dán
không khô để đính các nhãn hiệu hàng hoá. Trong các xưởng mạ, trong khi phun sơn, phun cát người ta thường dùng băng keo trong phủ keo dán không khô để bảo vệ các phần không động chạm đến. Khi cần bảo vệ bề mặt sáng bóng của các tấm kim loại, bịt kín các bình đựng kim loại, ngay cả khi cần bảo vệ các tập sách, các tập vở bài tập của các bạn học sinh nhỏ, người ta cũng hay dùng băng keo trong có phủ keo dán không khô. Trong các bệnh viện người ta hay dùng các miếng cao dán để trị bệnh đau nhức, chống viêm, người ta cũng thường chọn loại băng keo dán không khô.
Trên võ đài, tại các cung thể dục thể thao, người ta cũng hay dùng keo dán không khô để phối chế các vật liệu vẽ các đường vẽ trên đất...
Thật không thể kể hết các ứng dụng của keo dán không khô.
Câu trả lời của bạn
Ở các gia đình, việc xả đá trong các tủ lạnh thường là việc gây nhiều phiền phức, vì thỉnh thoảng cần phải ngắt điện. Khi có loại sơn nhiệt điện thì cho dù nhiệt độ ở buồng đá có dưới - 18°C vẫn đảm bảo cho việc bảo quản thức ăn, lại khỏi phải mất công lo xả đá.
Ngoài ra người ta có thể dùng sơn nhiệt điện làm tan tuyết trên đường đi, loại bỏ băng trên cánh máy bay...
Sơn nhiệt điện không ngừng được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn, trong tương lai chắc sẽ còn được ứng dụng rộng rãi hơn trong sản xuất, trong đời sống hằng ngày.
Câu trả lời của bạn
Kỹ thuật thuộc chính là quá trình tiến hành gia công hoá học và vật lý bằng một loại chất thuộc da chọn trước. Trong khi thuộc da, thuốc thuộc da (chất thuộc da) sẽ thâm nhập vào bên trong da tạo nên các biến đổi có hệ thống các protein, gây nên một loạt các phản ứng cho các protein hình thành các liên kết nối tiếp nhau, do đó làm nên sự thay đổi tính chất da thuộc.
Thuốc thuộc da có thể có nguồn gốc thực vật, khoáng vật và dầu béo. Khi chúng ta uống chè, ăn hồng, ta cảm thấy có vị chát, đó là do trong quả hồng, lá chè có chứa tanin là chất gây vị chát. Tanin còn được gọi là axit tanic. Trong thiên nhiên, hầu hết lá cây, rễ cây, vỏ cây đều có chứa axit tanic. Loài người đã sớm biết dùng vỏ của một số loại cây để làm thuốc thuộc da. Với các thuốc thuộc da khác nhau ta có thể nhận được hiệu quả thuộc da khác nhau. Ví dụ khi dùng thuốc thuộc da có nguồn gốc khoáng vật, da thuộc sẽ rất mịn mặt, màu nhạt, bền nhiệt, bền đối với ẩm. Dùng thuốc thuộc da có nguồn gốc thực vật, da thuộc sẽ có màu sắc đẹp, mềm, dai, bền. Còn dùng thuốc có nguồn gốc dầu mỡ chế từ động vật, da thuộc sẽ đặc biệt mềm, có tính hút ẩm, giữ ẩm tốt.
Ngày nay ở các xưởng chế tạo thuốc thuộc da và nhà máy thuộc da thường chọn được thuốc thuộc da và quy trình thuộc da hợp lý. Trước khi tiến hành xử lý "thuộc" một tấm da, người ta phải tiến hành ngâm tẩm, lạng mỡ, nhổ lông, rửa da, ngâm axit hoặc diêm tiêu (kali nitrat) làm cho da sạch mỡ, sạch lông, hết vi khuẩn, trở nên mềm và sạch sẽ, làm cho chất keo trong da vốn là protein dạng sợi sẽ duỗi ra và nở to, sau đó mới đưa vào giai đoạn thuộc da. Trong quá trình thuộc da, tuỳ theo yêu cầu có thể chọn các loại thuốc thuộc da khác nhau để gây các biến đổi cho các protein dạng sợi, vừa giữ da động vật mềm, bền, không bị thối, bị nhớt, cuối cùng phải tiến hành các bước nhuộm màu, sấy khô, mài phẳng, vò mềm, đánh bóng...
Trong các nhà máy thuộc da, các bước xử lý hoá lý, vật lý được tiến hành theo các công đoạn xác định và nhận được da thuộc với các nét bề ngoài đẹp đẽ, bền. Người ta thường dùng da thuộc để may áo da, giày da, va ly da, túi da... vừa bền vừa đẹp, được mọi người ưa thích.
Câu trả lời của bạn
Thực ra thì giấy gói hàng về bản chất không khác giấy thường mấy. Chỉ có điều khi chế tạo giấy gói hàng người ta thường dùng loại cây có sợi dài. Khi đun nấu gỗ với kiềm và sunfua kiềm cũng như với các hoá chất khác để tẩy trắng, các phản ứng hoá học xảy ra khá ôn hoà,
các sợi gỗ vẫn giữ nguyên được cường độ cao, nên dùng loại bột giấy này để xeo giấy, giấy có độ bền tốt.
Ngoài ra khi xeo giấy người ta còn thêm keo để gia cố độ bền. Chính vì vậy mà giấy bao gói hàng rất bền, khó hút nước, nó được dùng làm giấy bao gói hàng rất phổ biến.
Câu trả lời của bạn
Vật liệu thông minh là vật liệu có nhạy cảm. Đây chính là những thiết bị toàn bộ khoa học kỹ thuật cao biết kết hợp sự cảm nhận cơ giới với vật liệu truyền thống làm cho vật liệu như có năng lực "cảm giác" và "tự hồi phục". Ví dụ người ta đã kết hợp tính dẫn điện tốt của sợi cacbon với tính cách điện của sợi thuỷ tinh làm một để chế tạo vật liệu thông minh. Dưới tác dụng của ngoại lực tương đối mạnh, vật liệu sẽ bị cong và do sợi cacbon rất giòn nên sẽ gây vỡ một phần hoặc toàn bộ, nên làm thay đổi tính dẫn điện của tập hợp vật liệu, từ đó người ta tính ra mức độ tổn thất. Ta thử bàn đến vật liệu bê tông: Người ta dự định đưa vào cốt thép một số thanh chế tạo bằng vật liệu sợi rỗng lòng, bên trong có chứa sẵn vật liệu tu sửa. Khi bê tông chịu áp lực quá lớn bị nứt vỡ, các thanh rỗng trong cốt bê tông sẽ vỡ ra để vật liệu tu sửa thoát ra và tự sửa chữa và phục hồi.
Câu trả lời của bạn
Đĩa quang VCD chỉ có màng rất mỏng vật liệu ghi (chỉ dày 20-30 nanomet) còn lại là chất làm đế để tráng vật liệu. Chất làm đế thường là vật liệu polyme polymetyl metacrilat, polycacbonat và vài loại polyme kết tinh mới được phát minh. Khi chế tạo đĩa ghi quang học để bảo vệ tín hiệu ghi trên đĩa, người ta phải tiến hành nhiều công đoạn: Trước hết người ta phủ lên đế một lớp chất cách điện thường là silic oxit hoặc kẽm sunfua. Sau đó lại phủ tiếp lớp vật liệu ghi rồi lại một lớp tăng cường độ trong suốt để tăng cường độ truyền quang cho tia laze được sử dụng. Cuối cùng để bảo vệ lớp ghi tín hiệu trên đĩa quang người ta lại mạ một màng mỏng kim loại phản xạ (ví dụ màng nhôm kim loại). Như vậy chỉ với đĩa quang VCD trong công nghệ chế tạo, ngoài việc chọn vật liệu, quả còn nhiều nội dung nghiên cứu, nhiều tri thức cần biết.
Câu trả lời của bạn
Băng từ có đế là màng mỏng làm bằng chất dẻo họ polyeste hoặc sợi axetat xenluloza, bên trên có phủ một lớp bột vật liệu có từ tính. Có nhiều loại vật liệu từ tính được phủ lên băng từ như oxit sắt từ, hệ sắt - coban, hệ crom - coban, hệ mangan - bimut... Đầu từ cũng được chế tạo bằng nhiều loại vật liệu từ khác nhau như hệ sắt, niken - niobi, hệ sắt - nhôm, hệ niken - sắt - tantan... Các vật liệu sắt từ thường dùng đa số là hợp kim của sắt.
Câu trả lời của bạn
Vật liệu công năng bậc thang thường thuộc loại vật liệu phức hợp nhưng lại không thuộc vật liệu phức hợp truyền thống, cũng không giống với vật liệu kim loại đơn hoặc hợp kim đồng đều truyền thống. Một khối đồng thuần khiết hoặc một hợp kim đồng - kẽm, ở mỗi loại có thành phần cục bộ và liên quan đến nó là các tính chất vật lý, hoá học đều giống nhau trong từng loại. Còn trong vật liệu phức hợp truyền thống như bê tông cốt thép, thuỷ tinh thép... chúng có các thành phần và cấu trúc có sự thay đổi đột biến, có nghĩa là giữa các vật liệu khác nhau có một ranh giới rõ rệt. Còn trong vật liệu công năng bậc thang, từ bộ phận có thành phần này đến bộ phận có thành phần khác có sự thay đổi liên tục, cho nên các thành phần, kết cấu trong vật liệu rất đều đặn, không có một ranh giới thay đổi đột ngột. Vật liệu công năng bậc thang có thể tồn tại hai tổ hợp, song cũng có thể có nhiều tổ hợp.
Câu trả lời của bạn
Nanomet là đơn vị đo độ dài, 1 mét có 1000 milimet, 1 milimet có 1000 micromet, 1 micromet có 1000 nanomet. Do đó nanomet là đơn vị đo độ dài rất bé, bé đến khó tưởng tượng nổi. Đại đa số các loại phấn thường có kích thước hạt cỡ lớn hơn micromet. 1 micromet có thể bằng kích thước của mấy trăm triệu nguyên tử hay phân tử cộng lại, bấy giờ vật liệu sẽ thể hiện rõ tính chất của phân tử. Nếu ta lại đem các hạt gia công đến kích thước cỡ nanomet thì số phân tử hay nguyên tử trong hạt cực bé này sẽ giảm nhỏ đi mấy trăm triệu lần. Nếu dùng vật liệu nhỏ đến cỡ hạt này ta gọi là vật liệu nanomet. Nên vật liệu nanomet chính là vật liệu có cỡ hạt siêu mịn.
Câu trả lời của bạn
Kỹ thuật nanomet xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ XX, do những tính chất kỳ lạ của vật liệu nanomet, là một trang mới trong kỹ thuật cao.
Trước hết nói về màu sắc: Bất kỳ là kim loại hay gốm, khi đã đạt đến trạng thái bột mịn nanomet đều có màu đen. Hai là khi kim loại chế tạo thành vật liệu nanomet, độ cứng sẽ tăng cao hơn nhiều lần, từ trạng thái dẫn điện tốt trở thành cách điện. Đồ gốm ở trạng thái nanomet khắc phục được tính giòn vốn có mà trở nên bền chắc, đập mạnh cũng không vỡ.
Ngoài ra nhiệt độ nóng chảy của vật liệu nanomet càng giảm nhiều nếu đường kính hạt càng bé. Tính dẫn điện, từ tính, nội ứng lực cũng thay đổi rất nhiều ở vật liệu nanomet. Ví dụ sắt ở trạng thái nanomet có ứng lực chống đứt gãy tăng gấp 12 lần so với sắt thường. Vì có những đặc điểm như vậy nên vật liệu nanomet có những ứng dụng thực tế hết sức đặc biệt.
Dùng vật liệu từ tính nanomet có thể chế tạo các băng từ có mật độ cao. Thuốc ở trạng thái nanomet có thể tiêm trực tiếp vào máu, có thể đưa trực tiếp vào các mạch máu có đường kính rất bé một cách thuận tiện. Chất xúc tác ở trạng thái nanomet đưa vào trong xăng dầu có thể tăng hiệu suất của động cơ đốt trong lên nhiều lần...
Nhưng việc sản xuất vật liệu nanomet còn gặp nhiều khó khăn vì dùng phương pháp nghiền rất khó đạt được trạng thái bột siêu mịn. Hiện tại người ta dùng một số phương pháp vật lý hoặc hoá học đặc biệt mới có thể gia công và tạo được những hạt mịn cỡ nanomet. Ví dụ với kim loại, người ta có thể cho kim loại vào bình kín chứa đầy khí trơ heli, gia nhiệt cho kim loại biến thành hơi. Làm lạnh, hơi kim loại trong bầu khí trơ heli sẽ thành khói kim loại đen như mồ hóng, ta có được bột mịn kim loại nanomet, ép thành màng, xử lý bằng thiêu kết, từ đó có thể chế tạo linh kiện bằng vật liệu nanomet. Các nhà khoa học còn dùng tia laze để cho bay hơi, ngưng kết chế được loại gốm từ những hạt có kích thước nanomet. Đương nhiên các phương pháp chế tạo này có giá thành cao, rất hạn chế cho việc áp dụng trong quy mô lớn. Để có thể ứng dụng được vào các lĩnh vực kỹ thuật cần phải vượt qua không ít khó khăn.
Câu trả lời của bạn
Xi măng thường là hỗn hợp của canxi silicat hoặc cacbonat. Xi măng được sản xuất bằng cách dùng đá vôi (canxi cacbonat); đất sét (hợp chất của nhôm, silic và oxy) cho vào lò rồi nung ở nhiệt độ cao mà thành. Khi đem bột xi măng trộn với nước. Khoảng sau 1 giờ, các hạt xi măng sẽ bị bao bọc bằng lớp mỏng bán thẩm thấu. Màng chất mỏng này chính là do canxi silicat và nước tạo nên. Người ta gọi đây là quá trình kết hợp nước. Xi măng thường sau khi tiếp xúc với nước khoảng 4 giờ mới bắt đầu đóng rắn. Bấy giờ nhờ hiện tượng bán thẩm thấu, phần nước bên ngoài sẽ ngấm dần vào bên trong lớp màng. Các hạt xi măng sẽ xảy ra sự hoà tan một phần tuỳ theo nồng độ. Do áp suất thẩm thấu, thể tích tăng lên, màng mỏng vỡ ra và lại hình thành màng keo mới, quá trình lặp đi lặp lại nhiều lần, bên ngoài hạt xi măng sẽ hình thành các tổ chức dạng sợi rỗng. Phần lớn các sợi rỗng giống như những "cây kim" rỗng lòng cứ thế phát triển ra phía ngoài. Các sợi nhỏ rỗng lòng giống như những "cây kim" lớn lên, kết hợp lại với nhau, nhờ đó các hạt sẽ kết dính với nhau tạo thành các "mạng lưới". Chính tổ chức mạng lưới tạo thành một hình khối có cấu trúc mạng lưới, nhờ đó cường độ của xi măng tăng lên.
Câu trả lời của bạn
Vật liệu siêu dẫn là loại vật liệu có tính chất đặc biệt: Chúng có điện trở bằng không. Vào năm 1911, một nhà vật lý Hà Lan là Maoneis tìm thấy ở nhiệt độ -269°C, thuỷ ngân có điện trở bằng không, ông gọi đó là tính siêu dẫn. Việc phát hiện hiện tượng siêu dẫn kỳ lạ đó đã được giới khoa học kỹ thuật hết sức coi trọng. Người ta hy vọng có thể lợi dụng các chất siêu dẫn để chế tạo các chất có từ tính mạnh để có thể ứng dụng vật liệu từ siêu dẫn này vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và sản xuất khác nhau.
Thế nhưng việc sử dụng các kim loại thuần khiết như chì, thiếc làm vật liệu siêu dẫn đều cho từ trường rất nhỏ. Vì khi với cường độ dòng điện lớn thì tính siêu dẫn biến mất. Phải đến những năm 30 của thế kỷ XX, các nhà khoa học mới tìm thấy khi đưa một loại nguyên tố nào đó vào kim loại thuần khiết để tạo nên hợp kim thì giới hạn cường độ dòng điện và cường độ từ trường được tăng cao lên nhiều. Ví dụ, vào năm 1930, người ta đã chế tạo được hợp kim chì - bitmut giới hạn từ trường đạt đến 2 tesla. Các nhà khoa học Liên Xô trước đây đã nghiên cứu và có những cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực siêu dẫn. Họ đã chế tạo được các hợp kim siêu đẫn có giá trị thực dụng được gọi là chất siêu dẫn loại hai như các hợp kim niobi - ziriconi, hợp kim vanđi - gali; các oxit kim loại kiểu cấu trúc A - 15; một số ít kim loại như niobi, vanađi, tecniti... Dùng các chất siêu dẫn này làm vật liệu từ, do không có điện trở vừa có tính chất giảm tĩnh điện, không có tổn thất nhiệt, thể tích nhỏ nên có thể tích nhỏ, công suất lớn. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà khoa học đã chế tạo thành công vật liệu siêu dẫn có từ trường đạt đến 10 tesla, có thể ứng dụng rộng rãi trong cộng hưởng từ hạt nhân, máy gia tốc, buồng bọt, máy phát điện dòng từ và tàu chạy trên đệm từ quy mô lớn. Thế nhưng do vật liệu siêu dẫn chỉ làm việc được ở điều kiện nhiệt độ rất thấp mà việc tạo được nhiệt độ thấp này là một kỹ thuật phức tạp, tốn nhiều tiền của. Vì vậy kỹ thuật vật liệu siêu dẫn hiện còn đang ở giai đoạn thí nghiệm, khó đưa vào sử dụng rộng rãi.
Vào năm 1957, xuất hiện lý thuyết BCS giải thích hiện tượng siêu dẫn. Lý thuyết BCS cho rằng nguyên nhân gây ra hiện tượng siêu dẫn là do ở điều kiện nhiệt độ cực thấp, các điện tử tự do trong chất siêu dẫn song song nối tiếp nhau thành chuỗi dài. Khi có số lớn điện tử chuyển động định hướng thì bên trong chất siêu dẫn không còn lực cản trở chuyển động của dòng điện tử và hình thành dòng điện không có trở lực. Theo lý thuyết BCS rõ ràng đã tạo ra bóng cho việc sản xuất vật liệu siêu dẫn cao hơn - 243°C.
Vào năm 1986, ở công ty IBM Mỹ và Thụy Điển, Muler và Bainos đã tìm thấy oxit các kim loại lantan - bari - đồng đã có tính siêu dẫn ở nhiệt độ tương đối cao trong điều kiện phòng thí nghiệm, đã đột phá khu cấm của lý thuyết BCS. Điều đó đã nhen nhóm tia hy vọng về tương lai của việc ứng dụng vật liệu siêu dẫn. Do các điều kiện thực hiện thí nghiệm vật liệu siêu dẫn loại này không có yêu cầu cao lắm nên dễ thực hiện, điều đó đã khơi dậy nhiệt tình nghiên cứu vật liệu siêu dẫn trên toàn cầu. Nhiều nhà khoa học ở nhiều nước đều đi vào nghiên cứu cách nâng cao giới hạn nhiệt độ siêu dẫn. Một nhà khoa học quốc tịch Mỹ gốc Hoa là Chu Kinh Hoà và nhà khoa học Trung Quốc, Triệu Trung Hiền đã lập được các thành tựu được mọi người khâm phục. Để phân biệt loại vật liệu siêu dẫn mới với vật liệu siêu dẫn truyền thống nhiệt độ thấp, các nhà khoa học đã gọi đây là vật liệu siêu dẫn oxit nhiệt độ cao.
Ngày nay người ta đã chế tạo được loại vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao trên cơ sở oxit lantan - bari - đồng, oxit bari - ytri - đồng, oxit bitmut - chì - stronxin canxi, gia công thành màng mỏng, dây làm dụng cụ truyền cảm ứng thiết bị điện tử, nguồn phát vi ba...
Câu trả lời của bạn
Máy bay hàng không vũ trụ thường mang nhiều động cơ tên lửa (hoặc động cơ phản lực cao áp) dùng sức đẩy cực lớn để đẩy máy bay bay đi. Sau khi bay ra khỏi tầng khí quyển, máy bay khởi động các động cơ nhỏ để bay trong quỹ đạo không gian vũ trụ. Khi bay trên quỹ đạo, tổ lái có thể phối hợp thực hiện các nhiệm vụ. Khi bay về, máy bay hàng không vũ trụ cũng thực hiện hạ cánh giống như máy bay thường. Vì máy bay vũ trụ có thể dùng đi dùng lại nhiều lần, vừa có thể bay đi bay về giữa quỹ đạo vũ trụ và quỹ đạo gần mặt đất, nên đó là phương tiện vận tải có hiệu quả.
Khi phóng và thu hồi các loại khí cụ bay, các nhà chuyên môn rất quan tâm đến vấn đề là vỏ của các thiết bị sẽ có nhiệt độ rất cao khi bay vào tầng khí quyển. Chúng ta đều biết, vào ban đêm có nhiều sao băng sáng loé mắt, chính là do các sao băng đã bùng cháy khi bay vào lớp khí quyển của Trái Đất và có nhiệt độ rất cao.
Khi máy bay vũ trụ bay về Trái Đất, khi bay xuyên qua tầng khí quyển, vỏ máy bay cũng chịu nhiệt độ cao như vậy. Loại vật liệu nào có thể chịu được nhiệt độ rất cao như vậy? Loại vật liệu đó chủ yếu là những hợp chất cacbua silic, silic nitrua, ziriconi oxit (như hợp chất silic, nitrua bo, nhôm oxit...). Đây là họ vật liệu gốm không bị mềm khi gặp nhiệt độ cao.
Câu trả lời của bạn
Trong điều kiện bình thường, các phân tử của hợp chất tinh thể lỏng sắp xếp có trật tự, hợp chất ở trạng thái này hoàn toàn trong suốt. Nhưng khi ta đặt điện áp dòng một chiều vào tinh thể lỏng, sự sắp xếp các phân tử trong hợp chất tinh thể lỏng bị xáo trộn làm cho các tính chất quang học của hợp chất như tính trong suốt, cường độ và phương hướng tia phản xạ thay đổi, người ta gọi đó là "hiệu ứng điện quang" của hợp chất tinh thể lỏng.
Chất tinh thể lỏng họ cholesterol có thể thay đổi màu theo nhiệt độ. Ví dụ có loại hợp chất đổi màu theo nhiệt độ, khi nhiệt độ tăng cao sẽ đổi màu từ màu đỏ sang nâu, rồi vàng, xanh lục, xanh, lam, tím. Khi nhiệt độ giảm thì hợp chất lại dần chuyển từ màu tím đến màu đỏ. Người ta gọi đó là "hiệu ứng nhiệt độ". Ngày nay người ta sử dụng hiệu ứng nhiệt độ trong việc chẩn đoán bệnh, kiểm tra các mạng điện tử hết sức có hiệu quả.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *