Nội dung bài học đem đến nhiều tư liệu về vai trò của Hóa học trong phát triển kinh tế qua tìm hiểu về Hóa học với năng lượng và nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, xây dựng,...và nhiều liên hệ thực tế khác.
b. Hoá học đã góp phần giải quyết vấn đề về vật liệu như thế nào?
Các em hãy phân tích ưu, nhược điểm của các nguồn năng lượng cơ bản của tương lai.
Các nguồn năng lượng cơ bản trong tương lai bao gồm:
1. Năng lượng mặt trời
2. Than đá
3. Gió
Sau bài học cần nắm:
Bài kiểm tra Trắc nghiệm Hoá học 12 Bài 43có phương pháp và lời giải chi tiết giúp các em luyện tập và hiểu bài.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các sản phẩm giúp chùi rửa nhà tắm. Nó giúp tẩy rửa vết gỉ, sét, vết hóa vôi, vết xà phòng...Thành phần quan trọng có trong sản phẩm này là:
Trong đời sống người ta dùng O3 để khử trùng nước, khử mùi, tẩy trắng thực phẩm... là do:
Công thức của CaCO3 tương ứng với thành phần chính của loại đá nào sau đây:
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể hệ thống lại nội dung bài học thông qua phần hướng dẫn Giải bài tập Hoá học 12 Bài 43.
Bài tập 1 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 2 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 3 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 4 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 5 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 6 trang 187 SGK Hóa học 12
Bài tập 1 trang 259 SGK Hóa học 12 nâng cao
Bài tập 2 trang 259 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 3 trang 259 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 4 trang 259 SGK Hóa học 12 nâng cao
Bài tập 5 trang 259 SGK Hóa học 12 nâng cao
Bài tập 6 trang 259 SGK Hóa học 12 nâng cao
Bài tập 7 trang 259 SGK Hóa 12 Nâng cao
Bài tập 43.1 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.2 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.3 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.4 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.5 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.6 trang 99 SBT Hóa học 12
Bài tập 43.7 trang 100 SBT Hóa học 12
Trong quá trình học tập nếu có bất kì thắc mắc gì, các em hãy để lại lời nhắn ở mục Hỏi đáp để cùng cộng đồng Hóa DapAnHay thảo luận và trả lời nhé.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các sản phẩm giúp chùi rửa nhà tắm. Nó giúp tẩy rửa vết gỉ, sét, vết hóa vôi, vết xà phòng...Thành phần quan trọng có trong sản phẩm này là:
Trong đời sống người ta dùng O3 để khử trùng nước, khử mùi, tẩy trắng thực phẩm... là do:
Công thức của CaCO3 tương ứng với thành phần chính của loại đá nào sau đây:
Trong acquy chì chứa dung dịch axit sunfuric. Khi sử dụng acquy lâu ngày thường acquy bị "cạn nước". Để bổ sung nước cho acquy, tốt nhất nên cho thêm vào acquy loại chất nào sau đây?
Việt Nam là một nước xuất khẩu cafe đứng thứ 2 thế giới. Trong hạt cà phê có lượng đáng kể của chất cafein (C8H10O2N4). Cafein dùng trong y học với lượng nhỏ sẽ có tác dụng gây kích thích thần kinh. Tuy nhiên nếu dùng cafein quá mức sẽ gây bệnh mất ngủ và gây nghiện. Để xác nhận trong cafein có nguyên tố N, người ta chuyển nguyên tố đó thành chất nào sau đây:
Theo tính toán, năm 2000 cả nước ta tiêu thụ nhiên liệu tương được 1,5 triệu tấn dầu và thải vào môi trường khoảng 113700 tấn khí CO2. Trong một ngày lượng nhiên liệu tiêu thụ và lượng khí CO2 thải vào môi trường là:
Nhiên liệu nào sau đây thuộc loại nhiên liệu sạch đang được nghiên cứu để sử dụng thay thế một số nhiên liệu khác gây ô nhiễm môi trường?
Người ta đã sản xuất khí metan thay thế một phần cho nguồn nguyên liệu thiên nhiên là khí thiên nhiên và khí dầu mỏ bằng cách nào sau đây?
Một trong những hướng con người đã nghiên cứu để chế tạo ra nguồn năng lượng nhân tạo to lớn sử dụng cho mục đích hòa bình, đó là:
Metan là thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên. Tính thể tích khí thiên nhiên ở đktc chứa 92% metan cần thiết để sản xuất 10 tấn nhựa phenol fomanđehit (novơiac).
Hãy cho biết các dạng năng lượng cơ bản trên Trái Đất?
Cho biết những nét chính về xu hướng phát triển năng lượng cho tương lai. Cho 3 thí dụ cụ thể về việc dùng sản phẩm tiêu thụ ít năng lượng?
Cho biết thí dụ về một số ngành sản xuất nhiên liệu quan trọng?
Bảng dưới đây cho biết sản phẩm của sự đốt cháy nhiên liệu:
Tên nhiên liệu | Sản phẩm của quá trình đốt cháy nhiên liệu | |
Sản phẩm chính | Sản phẩm khác | |
Than đá | H2O, CO2 | Khói (cát hạt nhỏ), SO2,… |
Than cốc | CO2 | SO2 |
Khí thiên nhiên | CO2, H2O | - |
Củi, gỗ | CO2, H2O | Khói |
Xăng, dầu | CO2, H2O | SO2 |
Nhiên liệu được coi là sạch, ít gây ô nhiễm môi trường hơn cả là:
A. Củi, gỗ, than cốc.
B. Than đá. xăng dầu.
C. Xăng, dầu.
D. Khí thiên nhiên.
Theo tính toán, năm 2000 cả nước tiêu thụ lượng nhiên liệu tương đương 1,5 triệu tấn dầu và thải vào môi trường khoảng 113 700 tấn khí CO2. Trong 1 ngày lượng nhiên liệu tiêu thụ tương đương với khối lượng dầu và lượng thải CO2 vào môi trường là:
A. 0,003 triệu tấn dầu, 200 tấn CO2.
B. 0,004 triệu tấn dầu, 311 tấn CO2.
C. 0,005 triệu tấn dầu, 415 tấn CO2.
D. 0,012 triệu tấn dầu, 532 tấn CO2.
Một số mắt xích của phân tử một loại để chế tạo "kính khó vỡ" dùng cho máy bay ô tô, thấu kính như sau:
Hãy viết công thức của mỗi mắt xích và công thức tổng quát của loại polime này?
Nhiên liệu nào sau đây thuộc loại nhiên liệu sạch đang được nghiên cứu để sử dụng thay thế một số nhiên liệu khác gây ô nhiễm môi trường?
A. Than đá
B. Xăng dầu
C. Khí butan (gaz)
D. Khí hiđro
Người ta sản xuất khí metan thay thế một phần cho nguồn nguyên liệu thiên nhiên là khí thiên nhiên và khí dầu mỏ bằng cách nào sau đây?
A. Lên men các chất thải hữu cơ như phân gia súc trong lò Biogaz.
B. Thu khí metan từ khí bùn ao.
C. Lên men ngũ cốc.
D. Cho hơi nước đi qua than nóng đỏ trong lò.
Một trong những hướng con người đã nghiên cứu để tạo ra nguồn năng lượng nhân tạo to lớn để sử dụng cho mục đích hoà bình, đó là:
A. Năng lượng mặt trời.
B. Năng lượng thuỷ điện.
C. Năng lượng gió.
D. Năng lượng hạt nhân.
Hóa học đã góp phần giải quyết vấn đề nhiên liệu và năng lượng: của nhân loại trong tương lai như thế nào?
Hãy kể 3 thí dụ về 3 loại vật liệu hóa học được dùng trong đời sống và sản xuất.
Nhiều loại sản phẩm hóa học được sản xuất từ muối ăn trong nước biển như: HCl, nước Gia-ven, NaOH, NaCO3
a. Hãy Viết các phương trình hóa học biểu diễn các quy trình sản xuất đó.
b. Tính khối lượng NaCl cần thiết để sản xuất 15 tấn NaOH. Biết hiệu suất của quá trình là 80%.
Metan là thành phần chủ yếu của khí tự nhiên. Tính thể tích khí tự nhiên ở đktc chứa 92% metan cần thiết để sản xuất 10 tấn nhựa phenol fomanđhit (novolac).
Trong số các nguồn năng lượng sau đây, nhóm các nguồn năng lượng nào được coi là năng lượng "sạch" ?
A. Điện hạt nhân, năng lượng thủy triều.
B. Năng lượng gió, năng lượng thủy triều.
C. Năng lượng nhiệt điện, năng lượng địa nhiệt.
D. Năng lượng mặt trời, năng lượng hạt nhân.
Việt Nam có mỏ quặng sắt rất lớn ở Thái Nguyên nên đã xây dựng khu liên hợp gang thép tại đây. Khu sản xuất được xây dựng ở gần khu vực khai thác mỏ là do
A. tiện vận chuyển nguyên liệu làm cho chi phí sản xuất thấp.
B. không thể bảo quản được quặng sắt lâu dài sau khi khai thác.
C. chỉ có thể xây dựng nhà máy sản xuất gang thép tại Thái Nguyên.
D. có thể bảo quản được quặng sắt khi vận chuyển, nhưng điều kiện khí hậu ở nơi khác không đảm bảo
Trong số các vật liệu sau, vật liệu nào có nguồn gốc hữu cơ ?
A. Gốm, sứ.
B. Xi măng.
C. Chất dẻo.
D. Đất sét nặn.
Tại sao khi điện phân Al2O3 nóng chảy để sản xuất nhôm, người ta cầi phải thêm criolit ?
Tại sao hiện nay DDT không được dùng làm chất bảo vệ thực vật (diệt cỏ kích thích sinh trưởng)?
Chất dẻo PVC [poli(vinyl clorua)] và chất dẻo PE (polietilen) khác nhau ở điểm nào? Có thể phân biệt chúng bằng cách nào?
Trong công nghiệp, trước kia người ta sản xuất phenol từ clobenzen ngày nay sản xuất từ cumen. Viết phương trình hoá học của các phản ứng điều chế phenol theo hai cách và so sánh ưu điểm và hạn chế của hai cách.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Mọi người đều ưa thích cái đẹp. Đại đa số giới nữ hết sức quan tâm đến việc bảo vệ da (không chỉ da mặt). Với giới nữ tuỳ theo độ tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống mà có mối quan tâm khác nhau tới việc bảo vệ da. Với các nữ thanh niên, điều quan tâm hàng đầu là các vết mụn trứng cá trên da mặt xuất hiện nhiều dầu... Với giới nữ trung niên, họ quan tâm nhiều đến việc lão hoá của da, các vết nhăn, các vết sạm đen xuất hiện trên da, da bị khô và nhão... Nên khi đối mặt với nhiều loại mỹ phẩm có bao bì đẹp đẽ, choáng mắt thì việc chọn được một loại mỹ phẩm bảo vệ da thích hợp cho mình không phải là việc dễ! Trong những năm gần đây, người ta chú ý đến các mỹ phẩm bảo vệ da có chứa axit hoa quả và được cho là lý tưởng. Thế thì axit hoa quả là loại hợp chất như thế nào? Axit hoa quả (ví dụ axit tactric) viết tắt là AHA là nhóm axit thường có trong các dịch chiết rau xanh, hoa quả. Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thiếu nữ phát hiện khi dùng dịch ép từ một số loại rau xanh, quả tươi bôi lên mặt, đem lại hiệu quả làm cho da mặt có cảm giác mát, làm tăng tính đàn hồi của da mặt. Đó chính là do các axit hoa quả đã phát huy tác dụng bảo vệ da.
Nguyên nhân của tác dụng này là do các axit hoa quả có tác dụng làm mềm lớp sừng trên bề mặt da, điều chỉnh sự sắp xếp của các tế bào, xúc tiến quá trình đồng hoá, làm cho da có tính đàn hồi. Axit hoa quả còn có khả năng bảo vệ độ ẩm cho da, giảm bớt sự xuất hiện các vết nhăn trên da. Axit hoa quả còn có tác dụng kích thích sự lưu thông của lỗ chân lông, giống như "người dọn vườn" quét sạch các cặn bã, chất màu lắng đọng trong lỗ chân lông, làm giảm việc xuất hiện các vết đen trên da. Nhờ vậy khi dùng axit hoa quả để bảo vệ da sẽ cho ta cảm giác êm mát, tăng cao độ sáng của da, làm da dẻ hồng hào.
Câu trả lời của bạn
Hành và tỏi là những gia vị cho nhiều món ăn nhưng từ lâu cũng đã được biết đến như là những vị thuốc. Tỏi đã từng dùng làm thuốc chữa chứng phát ban, viêm bạch cầu, viêm phổi và rối loạn đường ruột trước khi có những biệt dược đặc hiệu.
Ngày nay người ta đã hiểu biết khá chi tiết về thành phần hoá học trong hành, tỏi. Hàng trăm hợp chất đã được phân lập và phân tích cấu trúc cũng như nghiên cứu về dược lý. Những hợp chất quan trọng nhất lấy từ hành, tỏi thường chứa từ một hoặc nhiều nguyên tử lưu huỳnh (S) trong cấu trúc. Đó là các hợp chất thiosunfua, polisunfua. Chúng có mùi và hoạt tính sinh học cao. Tuy vậy, cho đến gần đây những bí hiểm về cơ chế tác dụng sinh học của nhiều hoạt chất mới được tìm ra. Chẳng hạn như phát hiện ra chất etyletan disunfinat có tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thư. Y học đã khẳng định hàm lượng nitrit cao trong dạ dày là một độc tố liên quan đến sự xuất hiện ung thư dạ dày. Thế mà xét nghiệm đã cho thấy người có thói quên ăn tỏi sống, sau khi ăn xong, hàm lượng nitrit trong dạ dày giảm hẳn. Người ta cũng đã chứng minh được tác dụng ức chế phát triển ung thư của các hợp chất polisunfua không no. Chẳng hạn như chất ajoen là một hợp chất chứa 3 nhân chiết tách từ tỏi có tác dụng diệt tế bào ung thư lympho. Chất diallyl diunfua còn có khả năng làm gia tăng sinh trưởng các enzym khử độc.
Tỏi còn tác dụng hạ hàm lượng mỡ và cholesterol trong máu. Những người có bệnh tim nếu thường xuyên sử dụng tinh dầu tỏi sẽ làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim hay nghẽn mạch bởi chất ajoen và dithin có trong tinh dầu tỏi. Tác dụng ức chế kết tụ tiểu cầu là do các chất adenosin, allixin, ajoen và các polysunfua khác có trong tỏi.
Sau khi ăn tỏi, hơi thở có mùi khó chịu, đó là mùi của các hợp chất allylmetyl sunfua, disunfua, diallylsunfua; 2-poropen thiol.
Xoa tỏi dưới gan bàn chân thì sau vài giờ có thể phát hiện mùi tỏi trong hơn thở, lí do là chất allixin sau khi thấm qua da có thể tan trong mỡ và hấp thụ trong hệ lympha, không bị phân huỷ trong môi trường không chứa cistein và protein và thoát ra theo đường bài tiết. Còn ăn tỏi thì allixin sẽ phản ứng lập tức với các nhóm cistein chuyển thành những chất ức chế sinh hoá quan trọng.
Như vậy, tỏi vừa là gia vị, vừa là một vị thuốc quý.
Câu trả lời của bạn
Các thợ uốn tóc, sau khi uốn tóc xong thường phun một chất giống như bọt khí gọi là "moxi định hình". Sau khi phun moxi, tóc sẽ được cố định, không bị gió thổi bay tứ tung, thời gian định hình lại được lâu nên được nhiều người hoan nghênh. Moxi là loại hợp chất cao phân tử, khi qua gia công hoá học có thể đạt đến khối lượng phân tử hàng trăm ngàn thậm chí đến hàng triệu. Số nguyên tử cacbon trong phân tử có thể từ hàng nghìn đến hàng vạn, nối kế tiếp nhau thành chuỗi dài, mỗi đoạn của chuỗi có các nguyên tử hyđro, oxy, nitơ cùng một số nguyên tử khác sắp xếp nối nhau, xen kẽ nhau. Các nguyên tử ở cạnh nhau, quấn chặt nhau thành cuộn, tạo thành loại vật liệu có độ bền nhất định. Các chuỗi dây xích này từng đoạn, từng đoạn lại có các nguyên tử làm nhiệm vụ nối các dây xích thành loại vật liệu cao phân tử có cấu trúc dạng lưới. Với loại vật liệu có cấu trúc như vậy, khi gia nhiệt sẽ không bị mềm, không bị biến hình. Vật liệu moxi chủ yếu là polyetylen pirolidon (0,5 - 4%), etyl xenluloza và propyl xenluloza, 3 - metyl anilin đồng trùng hợp (0,5%) tạo thành. Sau đó thêm rượu etylic (15%), nước ròng (không chứa ion 60 - 65%), lượng ít chất phụ gia, hương liệu... Để tiện sử dụng người ta thêm chất phun sương (15%). Khi bạn phun bọt moxi lên tóc, các dung môi sẽ nhanh chóng bay hơi, hợp chất cao phân tử còn lại sẽ bám vào sợi tóc. Các hợp chất dạng sợi dài sẽ làm tăng độ cứng của sợi tóc và giữ cho sợi tóc có hình dáng nhất định. Các hợp chất cao phân tử dễ tan trong nước cũng như các protein tích điện dương, sẽ tạo nên trên bề mặt sợi tóc một lớp màng mỏng hợp chất cao phân tử, nhờ đó giữ được hình dáng sợi tóc. Lại có thể dùng nước để gội sạch khi cần thiết.
Ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều các loại thuốc định hình lọn tóc, ngoài moxi còn có thuốc định hình như thuốc ely... Ngoài tác dụng định hình còn có tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho tóc, giúp cho tóc luôn được óng
Câu trả lời của bạn
Mọi người đều biết cánh tay trần phơi dưới ánh nắng Mặt Trời sẽ bị nóng và đỏ lên. Nếu thời gian phơi nắng kéo dài sẽ bị rộp da, rất đau rát. Các ngư dân, các thuyền viên trên biển thường có nước da đen bóng, người ta thường gọi là da rám nắng, da sẽ trở nên đen, thô hơn, da bị lão hoá sớm hơn lứa tuổi. Đó là do các tia tử ngoại trong ánh nắng Mặt Trời gây nên.
Tia tử ngoại tuy có khả năng sát trùng, nhưng cũng có tác hại đối với tế bào sừng trên bề mặt da, nhẹ thì làm xuất hiện các vết mẩn đỏ, bỏng rát, nặng thì xuất hiện các rộp nước,
thậm chí tạo thành vết màu nâu, vết tàn hương ác tính, gây ung thư da... Kem chống nắng có thể giúp người ta đỡ bị hại da dưới ánh nắng Mặt Trời, đặc biệt rất có ích cho những ai làm việc dài ngày dưới ánh nắng Mặt Trời.
Trong kem chống nắng thường có một phần dầu, một phần nước, còn có chất chống nắng. Chất chống nắng là chất có khả năng hấp thụ hoặc phản xạ tia tử ngoại. Loại chất chống nắng được sử dụng sớm nhất là các loại bột mịn, các chất rắn như kẽm oxit, titan đioxit, bột hoạt thạch (bột tan) bột cao lanh... Chúng đều có khả năng phản xạ tia tử ngoại nên có tác dụng chống nắng. Về sau người ta còn dùng các chất chống nắng có khả năng hấp thụ tia tử ngoại. Đa số các chất chống nắng loại này là những hợp chất hữu cơ có khả năng hấp thụ mạnh các tia tử ngoại. Ví dụ hợp chất este amino benzoat butyl. Hợp chất này có thể hấp thụ đến 100% tia tử ngoại chiếu lên da. Đây là hợp chất chống nắng lý tưởng. Điều hết sức kỳ diệu là người ta tìm thấy một số loại cành cây, lá cây, trái cây, khi đem ngâm chiết bằng nước, ta có thể thu được dịch chiết có khả năng hấp thụ mạnh tia tử ngoại.
Ví dụ có thể dùng dịch chiết từ dưa leo, thân cây lau, chế tạo kem chống nắng, nước chống nắng có hiệu quả tốt. Những người làm việc dài ngày ở ngoài trời cần bôi kem chống nắng để bảo vệ da.
Câu trả lời của bạn
Như người ta thường nói "cái tóc là góc con người", tóc là yếu tố thứ hai đánh giá vẻ ngoài của con người. Tóc khoẻ mạnh, mượt mà, phản ánh trạng thái tinh thần hăng hái.
Tóc mỗi người khác nhau, ngoài yếu tố thiên nhiên còn do yếu tố chăm sóc của con người. Không ít người thích dùng thuốc uốn tóc lạnh để uốn tóc, làm nếp uốn không thay đổi, không có cảm giác tóc bị cứng. Thuốc uốn tóc lạnh không giống với cách uốn tóc thường (uốn nóng).
Vì sao thuốc uốn tóc lạnh lại uốn được tóc? Thuốc uốn tóc lạnh là loại mỹ phẩm làm cho tóc mềm để uốn. Thành phần chủ yếu có hai loại: Một loại thuộc chất oxy hoá thường là 3 - 6% nước oxy già (H2O2); một loại là chất khử gồm dung dịch mecapto axetat 75% (chiếm 8%), chất thấm ướt (chiếm 0,1%) và nước cất (chiếm 84,9%).
Khi dùng thuốc uốn tóc lạnh có hai bước: Bước 1 dùng chất khử để làm mềm tóc, làm sổ tung chuỗi muối và chuỗi mecapto, sau đó dùng dụng cụ uốn tóc thành lọn theo ý muốn.
Bước thứ hai là dùng chất oxy hoá tóc để khôi phục các chuỗi muối và chuỗi mecapto cố định các hình dáng của lọn tóc.
Nhưng do thuốc uốn tóc lạnh có chất kiềm, nếu dùng lâu dài có thể gây hiện tượng este hoá. Vì vậy trong thuốc uốn tóc lạnh, người ta có thêm dầu béo, các vitamin và protein để cho thuốc uốn tóc có tác dụng bảo vệ.
Câu trả lời của bạn
Trên những quyển sách lớn đóng bìa cứng thường có các tiêu đề, tên sách được mạ vàng
óng ánh, đẹp mắt. Trong các bao bì hàng hoá cũng thường thấy có những dòng chữ vàng
óng ánh.
Các chữ mạ vàng có thật bằng vàng không? Sự thực thì trừ một số rất ít các bộ sách quý,
các chữ mạ vàng thực sự được chế tạo bằng những lá vàng dát rất mỏng, còn đại đa số là
dùng "vàng giả". Vàng giả là hợp kim đồng - kẽm tạo thành. Đồng có màu tím, kẽm có màu
trắng bạc, chúng tạo nên hợp kim có màu vàng của vàng kim loại. Vì vàng giả là đồ giả, nên
để lâu trong không khí sẽ bị oxy hoá và bị xỉn màu. Người ta dùng hợp kim đồng - kẽm
nghiền mịn rồi cho dầu sơn vào bột mịn hợp kim, các hạt nhỏ hợp kim sẽ được phủ một lớp
mỏng sáp và sẽ không bị oxy hoá.
Ngày nay trên bìa cứng của nhiều quyển sách có các chữ vàng bằng lá nhôm mạ điện. Để
chế tạo lá nhôm mạ điện, người ta dùng màng mỏng terilong, trải lên một lớp phẩm màu
vàng, sau đó người ta mạ một lớp nhôm bằng cách phun hơi nhôm kim loại trong chân
không thành lớp mỏng lên màng terilong. Bấy giờ ta sẽ có một lá mỏng màu vàng óng ánh.
Cho đến các lá bạc, đương nhiên cũng không phải bằng bạc thật mà cũng được làm bằng
nhôm: Thuốc lá thơm, kẹo được bao gói bằng giấy bạc chính là loại nhôm lá. Nhôm lá cũng
được chế tạo từ màng terilong, được phủ bằng lớp nhôm. Loại bếp Mặt Trời được chế tạo
dưới dạng cái ô bạc sáng lấp lánh cũng chính là được chế tạo bằng lá nhôm này.
Câu trả lời của bạn
Trong khi đun nấu ở gia đình, không ít người cho lượng lớn dầu để rán, chiên thực phẩm.
Sau đó lại chắt riêng dầu đã qua chiên, rán còn dư để lần khác lại dùng xào nấu lại, dùng
cách này có thể tiết kiệm dầu, nhưng theo quan điểm vệ sinh loại dầu đã qua chiên, rán
không nên dùng để chiên, rán lại nhiều lần.
Thành phần dầu chính là các este của axit béo. Khi đem dầu chiên rán dưới điều kiện
nhiệt độ cao, đã phát sinh nhiều biến đổi không chỉ phá hoại giá trị dinh dưỡng của dầu béo
mà còn sinh ra nhiều chất độc ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ thậm chí gây độc hại.
Theo các kết quả nghiên cứu, khi đun nóng dầu ăn ở nhiệt độ 200 - 300°C, chí ít sẽ gây ra
3 loại biến đổi: một là dưới tác dụng nhiệt phân, este glyxerit (chất béo như dầu, mỡ) bị
phân giải thành anđehyt, xeton, các anđehyt, cacboxylic, este anđehyt cùng nhiều phân tử
nhỏ khác. Các hợp chất này không chỉ làm cho dầu có mùi khó ngửi mà còn ảnh hưởng đến
sức khoẻ. Ngoài ra còn có hai loại biến đổi khác là: lớp dầu bên trong thiếu oxy so với lớp
dầu bên ngoài nhiều oxy do quá trình oxy hoá, sẽ có tác dụng tụ hợp lại hình thành một tập
hợp lớn các phân tử. Trong các tập hợp phân tử này có những tích tụ gây độc mãn tính cho
cơ thể. Bấy giờ độ nhớt của dầu tăng lên, nhiệt độ bốc cháy tăng cao, dầu từ trạng thái trong
suốt biến thành đặc quánh, để lắng thành lớp chất rắn ở bên dưới. Đó là tiêu chí để đánh giá
độc hại của dầu nên cần phải bỏ đi.
Cần phải nói thêm rằng, không nhất thiết phải loại bỏ toàn bộ một nồi dầu lớn, mà chủ
yếu là không nên dùng dầu để chiên rán quá nhiều lần, không nên để dầu đã tích lại quá lâu
đem dùng. Khi độ nhớt của dầu đã quá cao và ngày càng đặc quánh, tính lưu động đã giảm
nhiều thì nên ngừng sử dụng. Ở đầu các đường phố nhỏ thường có các sạp hàng nhỏ dùng
dầu để rán bánh, dầu lại đổ tiếp vào dầu, dần dần phẩm chất của dầu giảm dần, nhưng hầu
như họ không nghĩ đến việc thay bằng dầu mới. Rõ ràng loại dầu này không nên tiếp tục
dùng để rán thức ăn.
Câu trả lời của bạn
Kỹ thuật bảo quản thực phẩm tươi, trong mấy chục năm trở lại đây đã có bước phát triển
lớn, làm mọi người cảm thấy tiện lợi. Trong số nhiều phương pháp bảo quản, phương pháp
chiếu tia phóng xạ là có hiệu quả cao, đặc biệt là giá thành thấp được nhiều người chú ý.
Chiếu xạ là chỉ công việc dùng các tia có năng lượng cao của các chất phóng xạ, chiếu lên
vật thể với liều lượng thích hợp để đạt đến hiệu quả nhất định.
Thông thường người ta không nhìn, nghe, sờ thấy tia phóng xạ, chúng không mùi vị, thế
nhưng nhiều hợp chất hoá học khi qua chiếu xạ đã có các hiện tượng bị phân huỷ, xảy ra
hiện tượng hoá hợp, oxy hoá, khử phản ứng trùng hợp, cùng những biến đổi đặc thù khác.
Vì vậy phương pháp chiếu xạ đã được sử dụng trong chẩn đoán y học, cải tạo giống, trong
gia công đặc thù các cao phân tử, sát trùng, trong bảo quản thực phẩm tươi.
Dùng phương pháp chiếu tia phóng xạ có thể trực tiếp diệt các loại vi khuẩn và vi sinh
vật. Một lần diệt khuẩn bằng chiếu xạ có hiệu quả không những không thua hiệu quả của
nhiệt độ cao, của nước đun sôi mà còn không ảnh hưởng gì đến giá trị dinh dưỡng, đến mùi
vị.
Ngoài ra quá trình chiếu xạ còn phá huỷ một loại phân tử quan trọng nhất trong tế bào là
axit đeroxyribonucleic (AND). Sau khi AND bị phá huỷ thì tế bào sẽ không tiến hành quá
trình tự phân chia được nữa, nhờ đó ức chế được quá trình lên men của rau, quả, quá trình
thay đổi màu sắc và các quá trình chuyển hoá khác. Khi AND bị phá huỷ, thành phần dinh
dưỡng của tế bào không hề bị ô nhiễm và cũng không bị mất đi.
Trong các công ty hoa quả, rau xanh, các nhân viên kỹ thuật cần dùng lượng lớn phóng xạ
chiếu lên thực phẩm cần bảo quản, sau một thời gian xác định, các vi sinh vật, ký sinh trùng,
vi trùng gây bệnh bị tiêu diệt một cách thầm lặng. Đồng thời, rau xanh, dưa, quả tươi cũng
không bị lên men, thối ủng biến chất, do đó có thể giữ rau quả được tươi trong một thời
gian dài. Nhờ phương pháp bảo quản bằng chiếu tia phóng xạ mà người ta có thể thưởng
thức các loại rau quả tươi trong suốt bốn mùa.
Câu trả lời của bạn
Đề cập đến kỹ thuật luyện kim trong không gian vũ trụ chắc các bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng vì loài người còn chưa bắt đầu nghiên cứu kỹ thuật đó. Nói đến kỹ thuật luyện kim trong không gian là các quá trình luyện kim được thực hiện trong các phòng thí nghiệm trong các con tàu vũ trụ. Những quá trình luyện kim này không thể thực hiện được trong các điều kiện ở mặt đất để chế tạo các vật liệu kim loại đặc biệt. Ta thử tưởng tượng trong điều kiện không gian vũ trụ ta tiến hành quá trình luyện kim ở quy mô lớn, khi đó giá thành sản phẩm sẽ quá cao vì vậy có thể làm người ta nản lòng. Thế tại sao cần phát triển kỹ thuật luyện kim trong không gian vũ trụ?
Trước hết trong điều kiện không trọng lượng của không gian vũ trụ sẽ tránh được ảnh hưởng của trọng lượng kim loại đến quá trình luyện kim. Từ năm 1975, các nhà du hành vũ trụ Liên Xô trước đây đã tiến hành các nghiên cứu luyện kim lý thú. Họ đã chọn hai kim loại: một kim loại có khối lượng riêng nhỏ (2,702), điểm nóng chảy thấp (660,4°C) là nhôm và một kim loại có khối lượng riêng lớn (19,35) và điểm nóng chảy rất cao (3410°C) là vofram làm đối tượng nghiên cứu. Vì hai kim loại có khối lượng riêng khác nhau rất lớn nên trong điều kiện ở mặt đất nhôm sẽ nổi lên trên mặt của kim loại vonfram nóng chảy như dầu nổi lên mặt nước. Vì vậy trong điều kiện trên mặt đất người ta không thể chế tạo được hợp kim giữa nhôm và vonfram. Thế nhưng trong điều kiện trên không gian vũ trụ thì nhôm sẽ hoà tan vào vonfram như dấm hoà tan vào nước và người ta sẽ chế tạo được hợp kim nhôm - vonfram lý tưởng.
Ngoài ra, trong không gian vũ trụ người ta có thể tránh được các ảnh hưởng của các loại tạp chất (không khí, bụi bẩn) đối với quá trình luyện kim. Các loại vật liệu có tính năng cao cần phải được chế tạo trong điều kiện chân không cao. Trong điều kiện ở mặt đất, việc tạo được điều kiện chân không cao cho quá trình luyện kim là việc hết sức khó khăn. Còn trong điều kiện của không gian vũ trụ thì việc tiếp cận với điều kiện đó là quá dễ dàng, vì trong không gian vũ trụ hầu như tuyệt đối không có không khí. Trong điều kiện không có trọng lượng trong không gian vũ trụ, người ta có thể dùng phương pháp luyện kiểu huyền phù mà không cần nồi nấu, lò nung, tránh được sự nhiễm bẩn của sản phẩm do các khí cụ dùng để tiến hành chế tạo, nhờ đó mà sản phẩm chế tạo được sẽ có độ tinh khiết rất cao.
Ngoài ra trong không gian vũ trụ có thể có những nơi rất giàu các nguyên tố mà ở trên mặt đất rất hiếm như niken, triti.... Ví dụ sao Hoả và sao Mộc có nhiều tiểu hành tinh có những vật thể có chứa lượng lớn niken và sắt. Người ta có thể dùng phương tiện tên lửa để chuyển các vật liệu đó đến không gian thích hợp, sau đó tiến hành chế tạo các vật liệu cần thiết. Thậm chí có thể dùng nguồn năng lượng Mặt Trời chiếu đến các tiểu hành tinh để tiến hành chế tạo, sau đó chuyển các vật liệu đã chế tạo về các quỹ đạo quanh Trái Đất, rồi vận chuyển về Trái Đất.
Ở nhiều nước người ta đã thử tiến hành nghiên cứu quá trình luyện kim trong không gian vũ trụ như đặt các thiết bị trong các vệ tinh nhân tạo để nghiên cứu quá trình kết tinh kim loại trong điều kiện không gian vũ trụ. Có thể tin rằng trong thế kỷ XXI loài người sẽ tập trung nhiều nhân lực, vật lực để nghiên cứu quá trình luyện kim trong vũ trụ và chắc sẽ thu nhận được nhiều loại vật liệu mới từ các quá trình đó.
Câu trả lời của bạn
Chất xúc tác là những chất có thể làm thay đổi vận tốc của phản ứng hoá học, nhưng chất xúc tác lại không hề thay đổi gì (về chất cũng như lượng) sau khi phản ứng hoá học đã xảy ra.
Chất xúc tác có vai trò quan trọng trong công nghiệp hoá học. Chất xúc tác có thể tăng tốc độ phản ứng hoá học lên nhiều lần, hàng chục lần, hàng trăm lần, nên rút ngắn được thời gian, tăng cao hiệu suất sản xuất. Ví dụ trong các nhà máy sản xuất phân đạm người ta thường dùng sắt làm chất xúc tác để tăng vận tốc phản ứng giữa nitơ và hyđro qua tác dụng xúc tác bề mặt, nhờ đó nitơ và hyđro trong hỗn hợp dễ tạo thành amoniac. Nếu không có chất xúc tác thì trong cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất, phản ứng tổng hợp amoniac sẽ xảy ra với tốc độ rất chậm, không thể tiến hành sản xuất với lượng lớn.
Chất xúc tác còn có khả năng chọn lịch trình cho phản ứng hoá học. Chất xúc tác có thể giúp chọn các bước phản ứng phù hợp với con đường mà người ta đã thiết kế, phản ứng sẽ xảy ra theo con đường thuận lợi nhất cho quá trình sản xuất. Ví dụ khi dùng rượu etylic làm nguyên liệu thì tuỳ thuộc việc chọn chất xúc tác và điều kiện phản ứng mà ta có thể nhận được các sản phẩm phản ứng khác nhau. Nếu chọn bạc làm chất xúc tác và đưa nhiệt độ lên đến 550°C, rượu etylic sẽ biến thành axetalđehyd; nếu dùng nhôm oxit làm xúc tác và ở nhiệt độ 350°C ta sẽ nhận được etylen; nếu dùng hỗn hợp kẽm oxit và crom (III) oxit làm chất xúc tác và ở nhiệt độ 450°C ta sẽ thu được butylen; nếu dùng axit sunfuric đặc làm xúc tác và giữ nhiệt độ 130 - 140°C ta sẽ có ete etylic. Từ đó có thể thấy chất xúc tác có vai trò rất to lớn trong sản xuất công nghiệp hoá học, và quả là "hòn đá chỉ vàng" trong ngành công nghiệp này.
Chất xúc tác quả đã mở rộng cánh cửa cho sản xuất hoá học. Trong không khí ở thành thị thường bị ô nhiễm do khí thải của ô tô, thành phần khí có hại trong khí thải chủ yếu là nitơ oxit, monoxit cacbon và hyđrocacbon thừa... Ngày nay các nhà khoa học đã tìm được chất xúc tác chế tạo thành thiết bị xúc tác nối vào ống xả khí thải của ô tô. Khi khí xả ô tô qua thiết bị xúc tác sẽ được xử lý, các chất cháy còn dư thừa sẽ bị oxy hoá biến thành cacbon đioxit và nước; nitơ oxit biến thành khí nitơ. Còn như với các vết máu, vết mồ hôi làm hoen ố quần áo để lâu sẽ rất khó giặt sạch. Nếu thêm vào bột giặt một loại men thì các vết máu, vết mồ hôi bám lên vải, không cần phải vò mạnh, cũng tự phân giải và tự hoà tan vào nước.
Loại men thêm vào bột giặt chính là chất xúc tác sinh học.
Trong tự nhiên có nhiều loại men sinh học có thể dùng năng lượng Mặt Trời phân giải nước thành hyđro và oxy; biến cacbon đioxit và nước trong không khí thành các hợp chất chứa nước và cacbon. Hyđro chính là một trong các nguồn năng lượng sạch có hiệu suất cao. Mà năng lượng Mặt Trời và nước là nguồn có thể là vô tận, nên nếu có thể dùng chất xúc tác để biến nước thành nhiên liệu hyđro, hoặc biến nước và cacbon đioxit thành thức ăn gia súc, thậm chí thành thực phẩm cao cấp quả là một điều khó tưởng tượng hết hiệu quả.
Nếu có thể dùng chất xúc tác sinh học làm được việc đó thì nó sẽ đem lại cho loài người nhiều lợi ích to lớn.
Câu trả lời của bạn
Vào cuối thế kỉ XVIII, khi hàng loạt các chất khí chưa từng biết được tìm ra dồn dập, xã hội Anh đã rất quan tâm đến vấn đề này, đến mức ở Bristol, người ta đã thành lập cả một viện nghiên cứu gọi là “Viện các khí” với mục đích dùng chất khí để chữa bệnh. Nhà hóa học Humphry Davy được cử làm thanh tra của Viện. Trong buổi họp long trọng để nghe báo cáo kết quả nghiên cứu, Davy đã đọc bài diễn văn kết thúc cực ngắn.
“Thưa các quý vị, trong tất cả các khí, thực ra chỉ có một chất khí chữa được bệnh mà chúng ta đã biết từ lâu – từ thuở khai sinh lập địa – đó là không khí sạch !”
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
màu nhuộm, aspirin,...
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Đáp án là D.Nano3
NaNO3
nh3
Câu hỏi này làm mình tò mò. Cái khung cảnh thần tiên trên tivi là do chất này. Là gì vậy các bạn?
Nước đá khô được sử dụng để bảo quản và vận chuyển những chế phẩm sinh học, dùng làm sương mù trong các hiệu ứng đặc biệt của ngành công nghiệp giải trí; thông thường nhất là trong ngành thực phẩm, nơi nó được dùng để bảo quản những loại thực phẩm dễ hư hỏng … Nước đá khô là gì?
A. N2 rắn.
B. CO2 rắn.
C. CH3COOH rắn.
D. H2O rắn ở nhiệt độ rất thấp.
Câu trả lời của bạn
B
Mình cũng hơi tò mò câu này nữa, mọi người.
Nhận xét không đúng là:
A. Nước giải khát được nén khí CO2 ờ áp suất cao hơn sẽ có độ chua lớn hơn.
B. Than cháy trong oxi nguyên chất nhanh hơn khi cháy trong không khí.
C. Thực phẩm được bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn sẽ giữ được lâu hơn.
D. Nhiên liệu cháy ở tầng khí quyển trên cao nhanh hơn khí cháy ở mặt đất.
Theo mình được biết thì:
Nước giải khát được nén khí CO2 ờ áp suất cao hơn sẽ có độ chua lớn hơn ⇒ Đúng.
Than cháy trong oxi nguyên chất nhanh hơn khi cháy trong không khí ⇒ Đúng.
Thực phẩm được bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn sẽ giữ được lâu hơn ⇒ Đúng.
Nhiên liệu cháy ở tầng khí quyển trên cao nhanh hơn khí cháy ở mặt đất ⇒ Sai. Càng lên cao không khí càng loãng, càng ít O2 ⇒ cháy chậm hơn.
Chính là CO2 rắn đó bạn.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *