1.1. Tự đánh giá: Một trăm dặm dưới mặt đất
Đọc văn bản Tự đánh giá: Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (trang 98 SGK Ngữ văn 7 Tập 1 Cánh Diều) và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Ghi vào vở chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng cho mỗi câu hỏi (từ câu 1 đến câu 9):
Câu 1: Đoạn trích viết về vấn đề gì?
A. Kể chuyện của ông đồ
B. Miêu tả hình ảnh ông đồ
C. Phân tích bài thơ Ông đồ
D. Giới thiệu nhà thơ Vũ Đình Liên
Trả lời:
Chọn đáp án: C. Phân tích bài thơ Ông đồ
Câu 2: Vì sao văn bản Về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên nêu trên là văn bản nghị luận văn học.
A. Vì văn bản tập trung miêu tả hình ảnh ông đồ
B. Vì tác giả đã phân tích cái hay của bài thơ Ông đồ
C. Vì tác giả đã kể lại câu chuyện về ông đồ viết chữ Nho
D. Vì văn bản đã giúp người đọc hiểu ông đồ là ai
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Vì tác giả đã phân tích cái hay của bài thơ Ông đồ
Câu 3: Theo em, mục đích chính của người viết đoạn trích trên là gì?
A. Ca ngợi những người viết chữ Nho
B. Ca ngợi hình ảnh ông đồ viết chữ Nho
C. Nêu lên tình cảnh buồn thảm của ông đồ
D. Chỉ ra cái hay của bài thơ Ông đồ
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Chỉ ra cái hay của bài thơ Ông đồ
Câu 4: Câu nào có bằng chứng được người viết dẫn ra từ bài thơ
A. Dòng thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi
B. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
C. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt ông đồ .
D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
Câu 5: Tác giả phân tích nghệ thuật dùng từ của nhà thơ ở câu nào?
A. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
B. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
C. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
D. Dòng thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Câu 6: Câu nào nêu nhận xét về tài năng nghệ thuật của nhà thơ Vũ Đình Liên
A. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại.
B. Ông đồ đã kiên nhẫn “vẫn ngồi đấy”, nhưng năm nay không còn kiên nhẫn được nữa.
C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
D. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc , nhưng quá muộn rồi
Trả lời:
Chọn đáp án: C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
Câu 7: Người viết thể hiện rõ cảm xúc của mình về hình ảnh ông đồ ở câu nào?
A. Hãy trở lại với dòng thơ đầu bài “Mỗi năm hoa đào nở”để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa.
B. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi
C. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt: nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay.
D. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi
Câu 8: Ý kiến khái quát của người viết về nội dung và nghệ thuật bài thơ Ông đồ được nêu ở câu nào
A. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta.
B. Ông đồ đã kiên nhẫn “vẫn ngồi đấy”, nhưng năm nay không còn kiên nhẫn được nữa.
C. Về ngữ pháp, dòng thơ này rất lạ, nhưng không thấy cộm: “Những người muôn năm cũ”.
D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Như vậy, cũng chỉ tám dòng, bốn mươi chữ đủ nói hết những bước chót của một thời tàn
Câu 9: Câu nào sau đây có vị ngữ được mở rộng bằng cụm chủ - vị
Trả lời:
A. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi
B. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người mà là bóng dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta.
C. Ông đồ đã cố bám lấy xã hội hiện đại, những người hiện đại chúng ta đã thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với…
D. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Chữ “muôn năm cũ” ở dòng trên đội xuống chữ “bây giờ” của dòng dưới càng bâng khuâng, luyến nhớ
Câu 10: Em thích nhất đoạn nào trong văn bản Về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên (Vũ Quần Phương)? Vì sao?
Trả lời:
- Trong văn bản Về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên (Vũ Quần Phương) em thích nhất đoạn mở đầu. Vì ở đoạn đầu đã gợi ra không gian tàn tạ, hết thời, buồn bã và ảm đạm.
1.2. Hướng dẫn tự học
Câu 1: Tìm đọc một số bài phân tích các văn bản Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Buổi học cuối cùng (Đô – đê), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Bố của Xi -mông (Mô-pa-xăng), Mẹ (Đỗ Trung Lai), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Hai vạn dặm dưới đáy biển (Véc-nơ), Người về từ Sao Hỏa (En-di Uya),…
Trả lời:
Mẹ (Đỗ Trung Lai): https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/den-voi-bai-tho-hay-me-3834888.html
Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi): https://revelogue.com/sach-dat-rung-phuong-nam/
Búp sen xanh (Sơn Tùng): https://vov.vn/van-hoa/van-hoc/bup-sen-xanh-tac-pham-tam-huyet-nhat-kinh-dang-len-bac-cua-nha-van-son-tung-876342.vov
Câu 2: Đọc một số bài nghị luận văn học và ghi lại những đoạn văn mà trong đó tác giả phân tích cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học.
Trả lời:
Đến với bài thơ hay: Mẹ
Lưng mẹ còng rồi
Cau thì vẫn thẳng
Cau - Ngọn xanh rờn
Mẹ - Đầu bạc trắng
Cau ngày càng cao
Mẹ ngày càng thấp
Cau gần với trời
Mẹ thì gần đất
Ngày con còn bé
Cau mẹ bổ tư
Giờ cau bổ tám
Mẹ còn ngại to
Một miếng cau khô
Khô gầy như mẹ
Con nâng trên tay
Không cầm được lệ
Ngẩng trời hỏi vậy
sao mẹ ta già
Không một lời đáp
Mây bay về xa
Đỗ Trung Lai
Bao nỗi đắng cay, buồn vui cuộc đời của mẹ đều được miếng trầu cau chứng kiến. Túi trầu mẹ nhẹ hay nặng cũng gắn với bao đầy vơi nỗi niềm.
Nhà thơ Đỗ Trung Lai đã chọn hình ảnh cây cau để ví von so sánh với mẹ là một phát hiện khá tinh tế, nhiều biểu cảm, không chỉ về hình thể bên ngoài mà cả sự sâu lắng bấm đốt thời gian thân phận của một đời người…
Làng quê nông thôn Việt Nam vườn ai mà chẳng thấy bóng dáng cây cau cũng như xóm thôn làm sao thiếu vắng được bóng mẹ. Mẹ tựa vào cây cau không như là gậy chống mà còn là khát khao từng nấc như ước vọng về tương lai con cháu về sự sum vầy sum suê của buồng cau trĩu quả.
Mẹ thì bao mong mỏi nhưng rồi thời gian khắc nghiệt như một quy luật luân hồi muôn đời: “Lưng mẹ còng rồi - Cau thì vẫn thẳng” và: “Cau - Ngọn xanh rờn, Mẹ - Đầu bạc trắng”. Hai sắc màu trái ngược nhau, hai hình dáng tương phản nhau tạo ra một ám ảnh lập tứ cho tiếng thơ tiếng lòng quạn bao nỗi thắt khi: “Cau gần với trời - Mẹ thì gần đất”.
Trời và đất, cao và thấp cứ chênh chao nhất là khi nhà thơ sử dụng nhịp thơ bốn chữ cứ có cảm giác cứ như lập cập, thổn thức, gieo gieo từng giọt nước mắt lặn vào trong buốt nhói với bao chiêm nghiệm.
Miếng cau bổ ra ngày càng nhỏ cũng đủ gợi cho ta tuổi già món mém của mẹ. Cau bổ tư rồi cau bổ tám như những chia sẻ, san sẻ hút dần sức lực của mẹ.
Chỉ qua hình ảnh miếng cau: “Một miếng cau khô - Khô gần như mẹ” cũng đủ bao cảm thông héo hắt khi: “Con nâng trên tay - Không cầm được lệ”. Hai chữ “nâng” và “cầm” đều chỉ động thái của tình cảm. Nếu “nâng” trang trọng kính trọng biết bao thì “cầm” lại nén bao đắng đót bấy nhiêu.
Từng cặp biểu cảm được song hành tạo ra bao chất chứa, lời ít mà vọng xa. Chính đây cũng là sự vận động cảm xúc của bài thơ “Mẹ” dồn nén để buột ra câu cảm thán mang âm hưởng điệu hành trong thơ văn cổ: “Ngẩng trời hỏi vậy - sao mẹ ta già”.
Câu hỏi tự vấn đất trời cũng chính là tự vấn lòng mình. Thơ đã chạm được đến nỗi người, cõi người vừa đăm đăm vừa trống trải. Một sự cô đơn ngỡ như vô vọng: “Không một lời đáp - Mây bay về xa”.
Nhưng lại không thất vọng vì hàng cau còn đó vun vút cao như một nỗi lòng và niềm tin của mẹ. Một niềm tin bền bỉ ấm áp miếng trầu. Và “mây bay về xa” hay mái đầu mẹ bạc hòa vào mây trắng…
Ngọc Phú
- Trong bài phân tích bày tác giả đã phân tích cái hay, cái đẹp trong cả nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mẹ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *