Nội dung bài Mở đầu giúp học sinh biết Hoá học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi chất và ứng dụng của chúng. Hoá học là môn học quan trọng và bổ ích.
Bước đầu biết rằng hoá học có vai trò trong cuộc sống của chúng ta, do đó cần phải có kiến thức Hoá học về các chất và sử dụng chúng trong cuộc sống.
*Thí nghiệm 1: Phản ứng giữa Đồng sunfat (màu xanh) và dung dịch natri hidroxit
Video 1: Phản ứng giữa Đồng sunfat (màu xanh) và dung dịch natri hidroxit
* Thí nghiệm 2: Phản ứng giữa đinh Sắt và dung dịch Clohidric
Video 2: Phản ứng giữa đinh Sắt và dung dịch Clohidric
Hóa học là khoa học nghiên cứu các chất, sự biến đổi chất…
Câu 1: Kể ra những vật dụng là đồ dùng thiết yếu sử dụng trong gia đình em?
Trả lời:
Hình 1: Một vài vật dụng thiết yếu trong gia đình
Câu 2: Kể ra những sản phẩm hóa học được sử dụng nhiều trong sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp ở địa phương em.
Hình 2: Một số loại thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học
Câu 3: Kể ra những sản phẩm hóa học phục vụ cho việc học tập của em và bảo vệ sức khỏe gia đình
Hình 3: Một số đồ dùng học tập và thuốc tây
Hóa học có vai trò rất lớn trong cuộc sống hàng ngày, sản xuất...
Cuộc sống hàng ngày: Quần áo, thuốc chữa bệnh, sách vở...
⇒ Môn hoá hoc có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.
Hình 4: Thu thập, tìm kiếm kiến thức
Hình 5: Quá trình vận dụng
Hình 6: Phương pháp học tốt môn Hóa
Biết làm thí nghiệm.
Có hứng thú say mê, chủ động, sáng tạo.
Nhớ kiến thức một cách chọn lọc thông minh.
Thường xuyên rèn luyện lòng ham thích đọc sách.
Sau bài học cần nắm:
Bài kiểm tra Trắc nghiệm Hóa học 8 Bài 1có phương pháp và lời giải chi tiết giúp các em luyện tập và hiểu bài.
Có các vật thể quả chuối, cái đinh, khí quyển, cái bát, bình hoa, ô tô, cây đào tiên. Số vật thể tự nhiên là
Có các vật thể như sau: xe đạp, máy bay, biển, con hổ, bình hoa, bút chì. Số vật thể nhân tạo là?
Mọi vật thể được tạo nên từ?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Hóa học DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
Có các vật thể quả chuối, cái đinh, khí quyển, cái bát, bình hoa, ô tô, cây đào tiên. Số vật thể tự nhiên là
Có các vật thể như sau: xe đạp, máy bay, biển, con hổ, bình hoa, bút chì. Số vật thể nhân tạo là?
Mọi vật thể được tạo nên từ?
Quan sát kỹ một chất thể biết được:
Hỗn hợp có thể tách riêng các chất thành phần bằng phương pháp lọc là?
Để tách rượu ra khỏi hỗn hợp rượu lẫn nước, dùng cách nào sau đây?
Hóa học là gì?
Dãy biểu diễn chất gì?
Nước tự nhiên là:
Trong số các câu sau, câu nào đúng nhất khi nói về khoa học hoá học?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Viết tiểu sử và công trình nghiên cứu của 1 nhà bác học mà em yêu thích.
( Các bạn nhớ viết ngắn thui nhưng nhớ đầy đủ nha!!!)
Câu trả lời của bạn
Acsimet (284 - 212 trước Công nguyên) - là nhà giáo, nhà bác học vĩ đại của Hy Lạp cổ đại, ông sinh tại thành phố Syracuse, một thành bang của Hy Lạp cổ đại. Cha của Acsimet là một nhà thiên văn và toán học nổi tiếng Phidias, đã đích thân giáo dục và hướng dẫn ông đi sâu vào hai bộ môn này. Năm 7 tuổi ông học khoa học tự nhiên, triết học, văn học. Mười một tuổi ông đi du học Ai Cập, là học sinh của nhà toán học nổi tiếng Ơclit; rồi Tây Ban Nha và định cư vĩnh viễn tại thành phố Cyracuse, xứ Sicile. Ðược hoàng gia tài trợ về tài chính, ông cống hiến hoàn toàn cho nghiên cứu khoa học.
Acsimet có nhiều đóng góp to lớn trong lĩnh vực Vật lý, Toán học và Thiên văn học.
Acsimet suốt cuộc đời say sưa học tập, nghiên cứu. Tương truyền rằng ông đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước khi đang tắm. Ông đã sung sướng nhảy ra khỏi bồn tắm, chạy thẳng về phòng làm việc mà quên cả mặc quần áo, miệng kêu lớn: "Ơrêca! Ơrêca (Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!). Trong cuộc chiến tranh của Hy Lạp chống quân xâm lược Rôma, Acsimet đã sáng chế ra nhiều loại vũ khí mới như máy bắn đá, những cái móc thuyền, đặc biệt trong đó có một thứ vũ khí quang học để đốt thuyền giặc. Thành Xicacudo đã được bảo vệ đến 3 năm mới bị thất thủ. Khi bọn xâm lược hạ được thành, chúng thấy ông vẫn đang say sưa ngồi nghiên cứu những hình vẽ trên đất. Ông đã thét lên: "Không được xóa các hình vẽ của ta", trước khi bị ngọn giáo của kẻ thù đâm vào ngực. Acsimet đã anh dũng hi sinh như một chiến sĩ kiên cường.
Acsimet là người yêu nước thiết tha. Trong giai đoạn cuối đời mình, ông đã tham gia bảo vệ quê hương chống lại bọn xâm lược La Mã .Ông đã lãnh đạo việc xây dựng các công trình có kỹ thuật phức tạp và chế tạo vũ khí kháng chiến. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua từ khi Acsimet bị quân La Mã giết hại, song người đời vẫn mãi ghi nhớ hình ảnh một nhà bác học thiết tha yêu nước, đầy sáng kiến phát minh về lý thuyết cũng như về thực hành, hình ảnh một con người đã hiến dâng cả đời mình cho khoa học, cho tổ quốc đến tận giờ phút cuối cùng.
so sánh tính chất của
a.nước cất và muối
b.tinh bột và đường kính
Câu trả lời của bạn
a, Nước cất ko vị, muối có vị mặn. b, tinh bột không tan trong nước, đường kính tan trong nước
a, Nước cất ko vị, muối có vị mặn.
b, tinh bột không tan trong nước, đường kính tan trong nước
a, Nước cất ko vị, muối có vị mặn. b, tinh bột không tan trong nước, đường kính tan trong nước
a, nước cất là chất tinh khiết ; muối là hỗn hợp
b, tinh bột không tan trong nước ; đường kính tan trong nước
a, Nước cất ko vị, muối có vị mặn.
b, tinh bột không tan trong nước, đường kính tan trong nước
a, Nước cất ko vị, muối có vị mặn.
b, tinh bột không tan trong nước, đường kính tan trong nước
Dị hóa là quá trình....?
nhanh thì tích
Câu trả lời của bạn
- QT.dị hoá: là quá trình phân huỷ các chất đặc trưng của tế bào thành các sản phẩm phân huỷ và giải phong năng lượng
sông gì đỏ nặng phù sa? sông gì lại hóa được ra chín rồng ? nàng quan họ có con sông hỏi rằng sông ấy là tên sông gì ? sông tên xanh biếc sông chi ? sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời ? sông gì chẳng thể nổi lên bởi tên của nó gắn liền dưới sâu ? hai dòng sông trước sông sau hỏi hai sông ấy ở đâu ? sông nào ? sông nào nơi ấy sóng trào vạn quân nam hán ta đào mồ chôn
Câu trả lời của bạn
sông gì đỏ nặng phù sa?=>sông Hồng
sông gì lại hóa được ra chín rồng ?=>sông Cửu Long
nàng quan họ có con sông
hỏi rằng sông ấy là tên sông gì ?=> sông Cầu
sông tên xanh biếc sông chi ?=>sông Lam
sông gì tiếng vó ngựa phi vang trời ?=>sông Mã
sông gì chẳng thể nổi lên
bởi tên của nó gắn liền dưới sâu ?=>sông Đáy
hai dòng sông trước sông sau
hỏi hai sông ấy ở đâu ? sông nào ?=>sông Nhị Hà(ở Hà Nội)
sông nào nơi ấy sóng trào
vạn quân nam hán ta đào mồ chôn=>sông Bạch Đằng
@DAVID DEGEAbạn xem có đúng không nhé
Tìm những ví dụ chứng minh tầm quan trọng của Hóa học
Câu trả lời của bạn
trong đời sống
Phản ứng hóa học xảy ra trong cuộc sống hằng ngày ví dụ như trong lúc nấu ăn, làm bánh hay rán mà trong đó các biến đổi chất xảy ra một cách rất phức tạp đã góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho món ăn. Thêm vào đó thức ăn được phân tách ra thành các thành phần riêng biệt và cũng được biến đổi thành năng lượng.
liên hệ với khoa học
Hóa học nghiên cứu về tính chất của các nguyên tố và hợp chất, về các biến đổi có thể có từ một chất này sang một chất khác, tiên đoán trước tính chất của những hợp chất chưa biết đến cho tới nay, cung cấp các phương pháp để tổng hợp những hợp chất mới và các phương pháp đo lường hay phân tích để tìm các thành phần hóa học trong những mẫu thử nghiệm.
trong công nghiệp
Công nghiệp hóa học là một ngành kinh tế rất quan trọng. Công nghiệp hóa học sản xuất các hóa chất cơ bản như axít sunfuric hay amoniac, thường là nhiều triệu tấn hằng năm, cho sản xuất phân bón và chất dẻo và các mặt khác của đời sống và sản xuất công nghiệp. Mặt khác, ngành công nghiệp hóa học cũng sản xuất rất nhiều hợp chất phức tạp, đặc biệt là dược phẩm. Nếu không có các hóa chất được sản xuất trong công nghiệp thì cũng không thể nào sản xuất máy tính hay nhiên liệu và chất bôi trơn cho công nghiệp ô tô.
Điền từ không hoặc có để hoàn thành đoạn văn sau đây:
Một số dấu hiệu có thể nhận biết biến đổi vật lí là:....... chất mới tạo thành;thường......... nhiệt tảo ra hay thu vào hoặc........ hiện tượng phát sáng;........sự thay đổi về trạng thái,tăng hay giảm thể tích,nở ra hay co lại;hay các biến đổi về mặt cơ học.
Một số dấu hiệu có thể nhận biết biến đổi hóa học là:.....chất mới tạo thành;biến đổi......kèm theo nhiệt tỏa ra hay thu vào hoặc phát sáng..........kèm theo sự thay đổi về một trong các dấu hiệu như:màu sắc,mùi vị,..........khí thoát ra,tạo thành chất kết tủa,...
Câu trả lời của bạn
Điền từ không hoặc có để hoàn thành đoạn văn sau đây:
Một số dấu hiệu có thể nhận biết biến đổi vật lí là: .....Không có..... chấtmới tạo thành; thường .....không có..... nhiệt tảo ra hay thu vào hoặc ....không có.... hiện tượng phát sáng; ....có....sự thay đổi về trạng thái,tăng hay giảm thể tích,nở ra hay co lại;hay các biến đổi về mặt cơ học.
Một số dấu hiệu có thể nhận biết biến đổi hóa học là: ...có...chất mới tạo thành;biến đổi ...có... kèm theo nhiệt tỏa ra hay thu vào hoặc phát sáng ...có... kèm theo sự thay đổi về một trong các dấu hiệu như:màu sắc,mùi vị, ...có... khí thoát ra,tạo thành chất kết tủa,...
Hòa tan muối bột vào nước cho dd nước muối đó qua giấy lọc. Nước muối có đi được giấy lọc không ?
Câu trả lời của bạn
khi đó nước qua giấy còn 1 phần muối đọng lại trên giấy
khi đó nước qua giấy còn 1 phần muối đọng lại trên giấy
khi đó nước qua giấy còn 1 phần muối đọng lại trên giấy
có
khi đó nước qua giấy còn 1 phần muối đọng lại trên giấy
co nha bn
cho một giả thuyết khoa học
Câu trả lời của bạn
Có nhiều định nghĩa khác nhau về giả thuyết khoa học: Black và Champion (1976) định nghĩa giả thuyết là"phát biểu thiên về một cái gì đó mà tính xác thực của nó chưa được biết đến" Theo Bailey(1978), giả thuyết là"Một mệnh đề được phát biểu dưới hình thức có thể kiểm chứng được và điều đó tiên đoán mối quan hệ đặc thù giữa hai hay nhiều biến số. Nói cách khác, nếu ta nghĩ rằng có mối quan hệ nào đó thì trước tiên hãy phát biểu điều đó dưới dạng giả thuyết, rồi sau đó kiểm thử giả thuyết này trong lĩnh vực tương ứng". Theo Kerlinger(1986): " Giả thuyết là một mệnh đề phỏng đoán về mối quan hệ giữa 2 hay nhiều biến số." Theo Vũ Cao Đàm (2005), giả thuyết là một nhận định sơ bộ "một kết luận giả định về bản chất sự vật, do người nghiên cứu đặt ra để chứng minh hoặc bác bỏ" Từ các định nghĩa trên, rõ ràng một giả thuyết gồm có các đặc tính sau: -là một mệnh đề có tính định hướng...
2. Giai thoại Ác-si-mét.
Bài tập: Em hãy đọc"Giai thoại Ác-si-mét" và mô tả các bước trong quá trình nghiên cứu của ông (ghi kết quả vào bảng 1.2).
STT | Các bước nghiên cứu | Nội dung |
1 | Xác định vấn đề nghiên cứu | |
2 | Giả thuyết nghiên cứu | |
3 | Phương pháp nghiên cứu | |
4 | Sản phẩm nghiên cứu |
Câu trả lời của bạn
Xác định vấn đề nghiên cứu: Kiểm tra xem chiếc vương miện mà người thợ kim hoàn dâng cho vua là vàn nguyên chất hay không
Giả thuyết nghiên cứu: Mọi vật chìm trong nước đều chịu một lực đẩy theo phương thẳng đứng , theo chiều hướng lên trên và có độ lớn đúng bằng phần chất lỏng mà vật đang chiếm chỗ.
Phương pháp nghiên cứu: Một khối vàng nguyên chất được giữ thăng bằng với chiếc vương miện , khi đưa vào trong chất lỏng nếu thanh còn giữ thăng bằng chứng tỏ chiếc vuong miện là vàng nguyên chất, nếu không thăng bằng chứng tỏ vương miện bị pha tạp chất do lực đẩy Ác-si-mét lên các chất khác nhau sẽ khác nhau cho dù chúng có cùng khối lượng.
Sản phẩm nghiên cứu: Chứng minh được chiếc vương miện đã bị nhà kim hoàn chế tạo từ vàng không nguyên chất.
Hóa chất được sử dụng trong quá trình tạo bọt bao gồm nhôm sunfat và sắt (III) clorua. Lý do nào khiến các hóa chất trên phát huy hiệu quả tốt
A. nhôm sunfat và sắt (III) clorua là những hợp chất có độ hoạt động cao.
B. Cation tạo được kết tủa khi kết hợp với các anion của rất nhiều loại muối tan trong nước.
C. vi khuẩn bị tiêu diệt bởi sự kết hợp của ion nhôm-sắt
D. các hạt có kích thước lớn nên hấp phụ được các vi khuẩn, sau đó dễ dàng được lọc bỏ.A. nhôm sunfat và sắt (III) clorua là những hợp chất có độ hoạt động cao.
Câu trả lời của bạn
D
D
D
D. các hạt có kích thước lớn nên hấp phụ được các vi khuẩn, sau đó dễ dàng được lọc bỏ.A. nhôm sunfat và sắt (III) clorua là những hợp chất có độ hoạt động cao.
CHÚC BẠN HỌC TỐT!!
Theo mình là: D. các hạt có kích thước lớn nên hấp phụ được các vi khuẩn, sau đó dễ dàng được lọc bỏ.A. nhôm sunfat và sắt (III) clorua là những hợp chất có độ hoạt động cao.
Em hãy tìm hiểu và tóm tắt tiểu sử nhà khoa học mà em kính yêu theo gợi ý sau:
Họ và tên: Giới tính:
Ngày sinh: Quê quán:
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu.
Câu trả lời của bạn
Họ và tên : Albert Einstein
Giới tính : Nam
Ngày sinh: 14 tháng 3 năm 1879
Quê quán : Ulm, Đức
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu
Trong suốt cuộc đời ông, Einstein xuất bản rất nhiều sách và hàng trăm bài báo. Phần lớn về vật lý, nhưng một số ít bày tỏ quan điểm chính trị cánh tả về chủ nghĩa hòa bình, chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa phục quốc Do thái.[10][12] Ngoài các nghiên cứu của cá nhân ông, ông còn hợp tác với nhiều nhà khoa học khác về các lĩnh vực khoa học như: Thống kê Bose–Einstein, máy làm lạnh Einstein và nhiều nghiên cứu khác.[82]
Các bài báo ban đầu của Einstein bắt nguồn từ sự cố gắng chứng minh rằng nguyên tử tồn tại và có kích thước hữu hạn khác không.[83] Tại thời điểm ông viết bài báo đầu tiên năm 1902, các nhà vật lý vẫn chưa chấp nhận hoàn toàn rằng nguyên tử tồn tại thực sự, mặc dù các nhà hóa học đã có những chứng cứ cụ thể từ các công trình của Antoine Lavoisier trước một thế kỷ. Lý do các nhà vật lý vẫn nghi ngờ vì không có một lý thuyết nào ở thế kỷ 19 có thể giải thích đầy đủ tính chất của vật chất từ các tính chất của nguyên tử.
Ludwig Boltzmann là nhà vật lý thống kê hàng đầu của thế kỷ 19, người đã đấu tranh nhiều năm để thuyết phục cộng đồng khoa học chấp nhận nguyên tử tồn tại. Boltzmann đã đưa ra cách giải thích các định luật nhiệt động học, gợi ý rằng định luật tăng entropy có tính thống kê. Theo cách suy nghĩ của Boltzmann, entropy là logarit của số các trạng thái một hệ có được cấu hình bên trong. Lý do entropy tăng chỉ bởi vì xác suất để một hệ từ trạng thái đặc biệt với chỉ vài cấu hình bên trong chuyển sang hệ có nhiều trạng thái hơn là lớn. Trong khi cách giải thích thống kê của Boltzmann về entropy được công nhận rộng rãi ngày nay, và Einstein đã tin vào điều này, tại thời điểm đầu thế kỷ 20 nó ít được mọi người để ý đến.
Ý tưởng thống kê được áp dụng thành công nhất khi giải thích tính chất của chất khí. James Clerk Maxwell, một nhà vật lý học hàng đầu khác, đã tìm ra định luật phân bố vận tốc của các nguyên tử trong chất khí, và ông đi đến một kết luận ngạc nhiên là tính nhớt của chất khí có thể độc lập với mật độ của nó. Về mặt trực giác, ma sát trong chất khí dường như bằng không khi mật độ đi về không, nhưng điều này không phải vậy, bởi vì đường di chuyển tự do trung bình của các nguyên tử trở lên rộng hơn tại mật độ thấp. Những thí nghiệm tiếp sau của Maxwell và vợ ông xác nhận tiên đoán kì lạ này. Các thí nghiệm khác trên chất khí và chân không, sử dụng một trống quay tách, cho thấy các nguyên tử trong chất khí có các vận tốc phân bố tuân theo định luật phân bố của Maxwell.
Bên cạnh những thành công này, cũng có những mâu thuẫn. Maxwell chú ý rằng tại nhiệt độ thấp, lý thuyết nguyên tử tiên đoán nhiệt dung riêng quá lớn. Trong cơ học thống kê cổ điển, mọi dao động điều hòa đơn giản (chuyển động kiểu lò xo) có nhiệt năng kBT ở nhiệt độ trung bình T, do vậy nhiệt dung riêng của mọi lò xo là hằng số BoltzmannkB. Một chất rắn đơn nguyên tử với Nnguyên tử có thể được xem là N quả cầu nhỏ tương ứng với N nguyên tử gắn vào mỗi vị trí nút mạng với 3N lò xo, do vậy nhiệt dung riêng của chất rắn là 3NkB, một kết quả của định luật Dulong–Petit. Định luật đúng cho nhiệt độ phòng, nhưng không đúng đối với nhiệt độ lạnh hơn. Tại gần 0K, nhiệt dung riêng bằng không.
Tương tự, một chất khí cấu thành từ phân tử hai nguyên tử có thể được xem là hai quả cầu gắn với nhau bởi một lò xo. Lò xo này có năng lượng kBT tại nhiệt độ cao, và cộng thêm vào một lượng nhiệt kB cho nhiệt dung riêng ở nhiệt độ khoảng 1000 độ, nhưng tại nhiệt độ thấp lượng nhiệt thêm này sẽ biến mất. Tại 0 độ, mọi nhiệt dung riêng do sự quay và rung động đều biến mất. Kết quả này mâu thuẫn với vật lý cổ điển.
Những mâu thuẫn rõ ràng nhất là trong lý thuyết về sóng ánh sáng. Các sóng liên tục trong một hộp được coi như vô số lò xo chuyển động, mỗi cái tương ứng với sóng đứng. Mỗi sóng đứng có một nhiệt dung riêng xác định kB, do đó tổng nhiệt dung riêng của sóng liên tục giống ánh sáng trở thành vô hạn trong cơ học cổ điển. Điều này rõ ràng là vi phạm đối với định luật bảo toàn năng lượng.
Những mâu thuẫn này dẫn đến nhiều người nói rằng nguyên tử không có tính vật lý, mà là toán học. Đáng chú ý trong số những người hoài nghi là Ernst Mach, người theo triết học thực chứng mà đã dẫn ông đến nhu cầu là nếu nguyên tử tồn tại, thì nó có thể nhìn thấy được.[84] Mach tin rằng những nguyên tử này là một giả tưởng hữu dụng, mà trong thực tế chúng được giả sử là nhỏ vô hạn, do vậy số Avogadro là vô hạn, hoặc rất lớn để coi như vô hạn, và kB là vô cùng nhỏ. Có những thí nghiệm có thể giải thích được bằng lý thuyết nguyên tử, nhưng lại có những thí nghiệm thì không thể giải thích được, và nó vẫn luôn là thế.
Einstein đã phản đối quan điểm này. Suốt sự nghiệp của mình, ông là một nhà duy thực. Ông tin rằng một lý thuyết phù hợp duy nhất có thể giải thích được mọi quan sát, lý thuyết này sẽ là một mô tả về cái thực sự đã diễn ra, và những điều ẩn sau nó. Từ đó ông cho rằng quan điểm về nguyên tử là đúng. Điều này dẫn ông đầu tiên đến với nhiệt động học, rồi đến vật lý thống kê, và lý thuyết nhiệt dung riêng của chất rắn.
Năm 1905, trong khi làm việc ở phòng cấp phát bằng sáng chế, tạp chí tiếng Đức hàng đầu Annalen der Physik đã xuất bản bốn bài báo của Einstein. Bốn bài báo sau này được coi là một cuộc cách mạng trong vật lý, và năm 1905 trở thành "năm kỳ diệu của Einstein".
Albert Einstein, 1905, Năm kỳ diệuNgày 30 tháng 4 năm 1905, Einstein hoàn thành luận án của mình dưới sự hướng dẫn của Alfred Kleiner, giáo sư vật lý thực nghiệm. Einstein được trao bằng tiến sĩ ở Đại học Zurich. Luận án của ông với tên "Một cách mới xác định kích thước phân tử".[43]
Các bài báo sớm nhất của Einstein đề cập đến nhiệt động học. Trong đó ông cố gắng giải thích các hiện tượng từ quan điểm thống kê của nguyên tử.[83]
Nghiên cứu của ông trong năm 1903 và 1904 tập trung vào hiệu ứng kích thước nguyên tử hữu hạn tác động đến hiện tượng tán xạ. Giống như nghiên cứu của Maxwell, sự hữu hạn của kích thước nguyên tử dẫn đến các hiệu ứng có thể quan sát được. Nghiên cứu này nằm trong vấn đề chính của vật lý ở thời đại ông đó là tìm cách quan sát và chứng minh nguyên tử tồn tại. Chúng cũng là nội dung chính trong luận án tiến sĩ của ông.[85]
Kết quả chính đầu tiên của ông trong lĩnh vực này là lý thuyết thăng giáng nhiệt động. Khi ở trạng thái cân bằng, một hệ có entropy cực đại, và theo cách hiểu của thống kê, nó chỉ có thăng giáng nhỏ. Einstein chỉ ra rằng thăng giáng thống kê của vật thể vĩ mô, có thể được hoàn toàn xác định bởi đạo hàm bậc hai của entropy.
Nghiên cứu cách kiểm tra quan hệ này, ông đã có đột phá lớn năm 1905. Ông nhận ra rằng lý thuyết này tiên đoán một hiệu ứng quan sát được cho một vật có thể di chuyển xung quanh tự do khi nằm trong môi trường nguyên tử hoạt động. Vì vật có vận tốc ngẫu nhiên do vậy nó có thể di chuyển ngẫu nhiên, giống như một nguyên tử đơn lẻ. Động năng trung bình của vật này là {\displaystyle k_{B}T}, và thời gian giảm thăng giáng có thể được xác định hoàn toàn bởi định luật ma sát.
Định luật ma sát cho quả cầu nhỏ trong chất lỏng nhớt giống nước được khám phá bởi George Stokes. Ông chỉ ra đối với vận tốc nhỏ, lực ma sát tỉ lệ với vận tốc, và bán kính của hạt. Quan hệ này được sử dụng để tính toán hạt chuyển động được một quãng đường bao nhiêu trong nước do chuyển động nhiệt ngẫu nhiên của nó, và Einstein chú ý là với những quả cầu kích thước khoảng một micron, chúng có thể di chuyển với vận tốc vài micron trong một giây. Chuyển động này đã được quan sát bởi nhà thực vật học Robert Brown dưới kính hiển vi, hay chuyển động Brown. Einstein đã đồng nhất chuyển động này với tiên đoán của lý thuyết ông đưa ra. Từ thăng giáng gây ra chuyển động Brown cũng chính là thăng giáng vận tốc của các nguyên tử, nên việc đo chính xác chuyển động Brown sử dụng lý thuyết của Einstein đã cho thấy hằng số Boltzmann là khác không và cho phép đo được số Avogadro.
Các thí nghiệm này được thực hiện vài năm sau đó, cho một ước lượng thô về số Avogadro phù hợp với ước lượng chính xác hơn của lý thuyết vật đen của Max Planck, và thí nghiệm đo điện tích của Robert Millikan.[86] Không như các phương pháp khác, đòi hỏi của Einstein cần rất ít các điều giả sử lý thuyết hay vật lý mới, vì đã trực tiếp đo chuyển động của nguyên tử qua các hạt nhìn thấy được.
Lý thuyết của Einstein về chuyển động Brown là bài báo đầu tiên về lĩnh vực vật lý thống kê. Nó thiết lập mối liên hệ giữa thăng giáng nhiệt động và sự tiêu tán năng lượng. Điều này được Einstein chỉ ra là đúng đối với thăng giáng độc lập thời gian, nhưng trong bài báo về chuyển động Brown ông chỉ ra rằng tỉ số nghỉ động học (dynamical relaxation rates) được tính toán từ cơ học cổ điển có thể được dùng là tỉ số nghỉ thống kê (statistical relaxation rates) để dẫn ra định luật khuếch tán động học. Những quan hệ này gọi là phương trình Einstein trong lý thuyết động học phân tử.
Lý thuyết về chuyển động Brown đã mở đầu năm kỳ diệu của Einstein, nhưng nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục các nhà vật lý chấp nhận thuyết nguyên tử.[83]
Suy nghĩ của Einstein phải trải qua một sự thay đổi vào năm 1905. Ông đã hiểu rằng các tính chất lượng tử của ánh sáng có nghĩa là các phương trình Maxwell chỉ là lý thuyết xấp xỉ. Ông biết rằng các định luật mới có thể thay thế chúng, nhưng ông chưa biết làm thế nào để tìm ra các định luật này. Ông cảm thấy rằng ước đoán các mối quan hệ hình thức sẽ không đi đến đâu.
Thay vào đó ông quyết định tập trung vào các nguyên lý tiên nghiệm, chúng nói rằng các định luật vật lý có thể được hiểu là thỏa mãn trong những trường hợp rất rộng thậm chí trong những phạm vi mà chúng chưa từng được áp dụng hay kiểm nghiệm. Một ví dụ được các nhà vật lý chấp nhận rộng rãi của nguyên lý tiên nghiệm đó là tính bất biến quay (hay tính đối xứng quay, nói rằng các định luật vật lý là bất biến nếu chúng ta quay toàn bộ không gian chứa hệ theo một hướng khác). Nếu một lực mới được khám phá trong vật lý, lực này có thể lập tức được hiểu nó có tính bất biến quay mà không cần phải suy xét. Einstein đã hướng tìm các nguyên lý mới theo phương pháp bất biến này, để tìm ra các ý tưởng vật lý mới. Khi các nguyên lý cần tìm đã đủ, thì vật lý mới sẽ là lý thuyết phù hợp đơn giản nhất với các nguyên lý và các định luật đã được biết trước đó.
Nguyên lý tiên nghiệm tổng quát đầu tiên do Einstein tìm ra là nguyên lý tương đối,[87] theo đó chuyển động tịnh tiến đều không phân biệt được với trạng thái đứng im. Nguyên lý này được Hermann Minkowski mở rộng cho cả tính bất biến quay từ không gian vào không-thời gian. Những nguyên lý khác giả thiết bởi Einstein và sau đó mới được chứng minh là nguyên lý tương đương và nguyên lý bất biến đoạn nhiệt của số lượng tử. Một nguyên lý tổng quát khác của Einstein, còn gọi là nguyên lý Mach, vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà khoa học.
Việc sử dụng các nguyên lý tiên nghiệm là một phương pháp đặc biệt độc đáo trong các nghiên cứu đầu tiên của Einstein, và nó trở thành một công cụ tiêu chuẩn trong vật lý hiện đại.
Bài báo năm 1905 của ông về điện động lực học các vật thể chuyển động giới thiệu ra lý thuyết tương đối hẹp, cho thấy tốc độ ánh sáng độc lập với trạng thái chuyển động của quan sát viên đã đòi hỏi những sự thay đổi cơ bản về khái niệm của sự đồng thời. Những hề quả của kết luận này bao gồm sự giãn thời gian và co độ dài (theo hướng chuyển động) của vật thể chuyển động tương đối đối với hệ quy chiếu của quan sát viên. Bài báo này cũng bác bỏ sự tồn tại của ête (vật lý) - một trong những vấn đề lớn của thời đó.[88]
Trong bài báo về sự tương đương khối lượng-năng lượng, vấn đề này cũng đã được quan tâm tới trước đó bởi các khái niệm khác, Einstein đã rút ra từ các phương trình của thuyết tương đối hẹp hệ thức nổi tiếng trong thế kỷ 20: E = mc2.[89][90] Hệ thức này cho thấy một khối lượng nhỏ tương đương với một năng lượng khổng lồ và nó là cơ sở cho lý thuyết năng lượng hạt nhân.[91]
Nhiều năm sau đó, công trình của Einstein về thuyết tương đối đặc biệt năm 1905 vẫn còn là đề tài tranh cãi, nhưng ngay từ ban đầu nó đã được các nhà vật lý lớn ủng hộ, khởi đầu là Max Planck.[92][93]
Trong một bài báo năm 1905,[94] Einstein đã đặt ra một tiên đề đó là ánh sáng bao gồm các hạt rời rạc gọi là lượng tử. Lượng tử ánh sáng của Einstein hầu như bị các nhà vật lý bác bỏ khi ông mới giới thiệu ý tưởng này, trong đó có Max Planck và Niels Bohr. Ý tưởng này chỉ được chấp nhận rộng rãi vào năm 1919, nhờ những thí nghiệm chi tiết của Robert Millikan về hiệu ứng quang điện thực hiện vào năm 1914,[95] và phép đo sự tán xạ Compton của Arthur Compton.[96]
Bài báo của Einstein về các hạt ánh sáng hầu hết xuất phát từ các nghiên cứu về nhiệt động lực học. Ông không bị thúc đẩy bởi các thí nghiệm về hiệu ứng quang điện, mà không phù hợp với lý thuyết của ông trong vòng 50 năm sau. Einstein quan tâm đến entropy của ánh sáng tại nhiệt độ T, và phân nó thành hai phần bao gồm phần tần số thấp và phần tần số cao. Phần ánh sáng tần số cao được miêu tả bởi định luật Wien, có entropy giống hệt với entropy của các phân tử khí cổ điển.[96]
Từ entropy là số logarit của các trạng thái khả dĩ, Einstein kết luận là số các trạng thái của ánh sáng bước sóng ngắn trong một hộp với thể tích V bằng với số các trạng thái của một nhóm các hạt lượng tử trong cùng hộp. Do ông (không giống với những người khác) cảm thấy dễ chịu với cách giải thích thống kê, ông tin rằng tiên đề về ánh sáng được lượng tử hóa là một công cụ giải thích tính hợp lý cho entropy.
Điều này dẫn ông đến liên hệ Planck–Einstein là mỗi sóng với tần số f sẽ đồng hành với một tập hợp các photon, mỗi hạt ứng với năng lượng hf, trong đó h là hằng số Planck. Ông không thể bàn luận thêm, bởi vì Einstein không dám chắc các hạt liên hệ như thế nào với sóng. Nhưng ông đề nghị là ý tưởng này có thể giải thích các kết quả thí nghiệm khác, như hiệu ứng quang điện.[97]
Vật lý vật chất ngưng tụ
Pha · Chuyển tiếp pha |
Trạng thái vật chất[hiện] |
Hiện ứng pha[hiện] |
Pha điện tử[hiện] |
Hiệu ứng điện tử[hiện] |
Pha từ[hiện] |
Giả hạt[hiện] |
Vật chất mềm[hiện] |
Nhà khoa học[hiện] |
|
Eiinstein tiếp tục nghiên cứu về cơ học lượng tử vào năm 1906, tìm cách giải thích sự dị thường của nhiệt dung riêng trong các chất rắn. Đây là ứng dụng đầu tiên của lý thuyết lượng tử vào một hệ cơ học.
Từ định luật Planck về phân bố bức xạ điện từ không cho kết quả về giá trị nhiệt dung riêng vô hạn, cùng ý tưởng này có thể được áp dụng cho chất rắn để khắc phục vấn đề nhiệt dung riêng vô hạn trong các chất này. Einstein đã chỉ ra một mô hình đơn giản với giả thuyết là chuyển động của các nguyên tử trong chất rắn bị lượng tử hóa để giải thích tại sao nhiệt dung riêng của chất rắn lại trở về không khi tiến gần đến độ không tuyệt đối.[96]
Mô hình của Einstein coi mỗi nguyên tử được kết nối với một lò xo tưởng tượng. Thay vì liên kết tất cả các nguyên tử với nhau, mà sẽ dẫn đến các sóng đứng với các loại tần số khác nhau, Einstein tưởng tượng ra mỗi nguyên tử được gắn tại một điểm trong không gian bởi chỉ một lò xo. Điều này không đúng về mặt vật lý, nhưng lý thuyết vẫn tiên đoán giá trị hữu hạn nhiệt dung riêng là 3NkB, do số các dao động độc lập đều giống nhau.
Einstein từ đó giả sử là chuyển động trong mô hình này bị lượng tử hóa, tuân theo định luật Planck, do vậy mỗi chuyển động độc lập của lò xo có năng lượng bằng một số nguyên lần hf, trong đó f là tần số dao động. Với giả sử này, ông áp dụng phương pháp thống kê của Boltzmann để tính ra năng lượng trung bình của mỗi lò xo trong một khoảng thời gian. Kết quả thu được giống với kết quả của Planck cho ánh sáng: tại nhiệt độ mà kBT nhỏ hơn hf, chuyển động bị ngưng lại (đóng băng), và nhiệt dung riêng tiến về 0.
Và Einstein kết luận là cơ học lượng tử có thể giải quyết được các vấn đề lớn trong vật lý cổ điển, như tính dị thường của nhiệt dung riêng. Các hạt hàm ý trong công thức trên bây giờ được gọi là photon. Vì mọi lò xo trong lý thuyết của Einstein đều có độ cứng như nhau, nên chúng dao động như nhau tại cùng một nhiệt độ, và điều này dẫn đến tiên đoán là nhiệt dung riêng tiến về 0 theo hàm lũy thừa khi nhiệt độ giảm đi về 0K.
Nghiên cứu này là nền tảng của vật lý vật chất ngưng tụ sau này.
Trong thập niên 1910, lý thuyết lượng tử đã mở rộng phạm vi áp dụng cho nhiều hệ thống khác nhau. Sau khi Ernest Rutherford khám phá ra sự tồn tại các hạt nhân và đề xuất các electron có quỹ đạo quanh hạt nhân giống như quỹ đạo của các hành tinh, Niels Bohr đã áp dụng các tiên đề của cơ học lượng tử được Planck và Einstein đưa ra và phát triển để giải thích chuyển động của electron trong nguyên tử, và của bảng tuần hoàn các nguyên tố.
Einstein đã đóng góp vào những phát triển này bằng liên hệ chúng với các tư tưởng của Wilhelm Wien năm 1898. Wien đã đưa ra giả thuyết về "bất biến đoạn nhiệt" của trạng thái cân bằng nhiệt cho phép mọi bức xạ của vật đen tại các nhiệt độ khác nhau được dẫn ra từ 'định luật dịch chuyển Wien. Einstein năm 1911 đã chú ý đến là cùng nguyên lý đoạn nhiệt này cũng chỉ ra các đại lượng bị lượng tử hóa trong chuyển động cơ học bất kì phải là bất biến đoạn nhiệt. Arnold Sommerfeld đã đồng nhất bất biến đoạn nhiệt này là biến tác dụng của cơ học cổ điển. Định luật tác dụng thay đổi được bị lượng tử hóa là nguyên lý cơ sở của thuyết lượng tử khi nó được biết từ 1900 đến 1925. (hay lý thuyết lượng tử cổ điển)
Mặc dù cục cấp bằng sáng chế đã bổ nhiệm Einstein làm nhân viên kĩ thuật kiểm tra hạng hai năm 1906, nhưng ông không hề từ bỏ sự nghiệp khoa học của mình. Năm 1908, ông trở thành giảng viên thỉnh giảng (privatdozent) tại trường Đại học Bern.[98] Trong "über die Entwicklung unserer Anschauungen über das Wesen und die Konstitution der Strahlung" ("The Development of Our Views on the Composition and Essence of Radiation"), về sự lượng tử hóa của ánh sáng, và trong một bài báo đầu năm 1909, Einstein chỉ ra rằng lượng tử năng lượng của Planck phải có động lượng và có thể cư xử như các hạt điểm độc lập. Bài báo này đưa ra khái niệm photon (mặc dù Gilbert N. Lewis đặt tên gọi photon mãi tới năm 1926) và mở ra khái niệm lưỡng tính sóng-hạt trong cơ học lượng tử. Dựa trên ý tưởng của Planck và của Einstein về sóng có bản chất hạt, nhà vật lý Louis de Broglie đặt ra vấn đề ngược là hạt vật chất có bản chất sóng và khai sinh ra nguyên lý lưỡng tính sóng hạt của vật chất.[99]
Einstein đã quay trở lại vấn đề nhiễu loạn nhiệt động học, với suy nghĩ tìm cách giải quyết những sự thay đổi mật độ trong chất lỏng tại điểm giới hạn của nó. Thông thường, nhiễu loạn mật độ được khử bởi đạo hàm bậc hai của năng lượng tự do theo mật độ. Tại điểm giới hạn này, đạo hàm bằng không, dẫn đến những nhiễu loạn lớn. Hiệu ứng nhiễu loạn mật độ mà theo đó mọi bước sóng của ánh sáng bị tán xạ khi đi vào môi trường khác, làm cho chất lỏng nhìn trắng như sữa. Einstein liên hệ hiện tượng này với hiện tượng tán xạ Raleigh, mà xảy ra khi độ lớn nhiễu loạn nhỏ hơn bước sóng, và hiện tượng này đã giải thích hiện tượng tại sao bầu trời có màu xanh.[100]
Einstein tại hội nghị Solvay năm 1911. Năm này ông trở thành phó giáo sư tại Đại học Zurich, và ngay sau đó ông trở thành giáo sư tại đại học Charles-Ferdinand ở Praha.Trực giác vật lý của Einstein đã dẫn ông chú ý đến các năng lượng dao động Planck không thể có điểm không. Ông sửa lại giả thuyết Planck bằng cách cho trạng thái năng lượng thấp nhất của một đối tượng dao động bằng với 1⁄2hf, bằng một nửa khoảng năng lượng giữa hai mức. Sự thay đổi này được nghiên cứu cùng với Otto Stern, trên cơ sở của nhiệt động học phân tử hai nguyên tử mà có thể tách ra thành hai nguyên tử tự do.
Năm 1907, khi còn đang làm việc tại cuc bằng sáng chế, Einstein đã có cái mà ông gọi là "ý tưởng hạnh phúc nhất" trong đời ông. Ông nhận ra là nguyên lý tương đối có thể mở rộng sang trường hấp dẫn. Ông suy nghĩ về trường hợp thang máy chuyển động với gia tốc đều nhưng không phải đặt trong trường hấp dẫn, và ông nhận ra là nó không thể khác biệt so với trường hợp thang máy im trong trường hấp dẫn không thay đổi.[101] Ông áp dụng thuyết tương đối hẹp để thấy tốc độ của các đồng hồ tại đỉnh thang máy gia tốc lên trên sẽ nhanh hơn tốc độ của đồng hồ ở sàn thang máy. Ông kết luận là tốc độ của đồng hồ phụ thuộc vào vị trí của chúng trong trường hấp dẫn, và hiệu giữa hai tốc độ đồng hồ tỉ lệ với thế năng hấp dẫn theo xấp xỉ bậc nhất.
Mặc du sự xấp xỉ này là thô, nó cho phép ông tính được độ lệch của tia sáng do hấp dẫn. Điều này làm cho ông tin tưởng rằng lý thuyết vô hướng về hấp dẫn được đề xuất bởi Gunnar Nordström là không đúng. Nhưng giá trị thực cho độ lệch mà ông tính ra nhỏ đi 2 lần so với giá trị thực, do xấp xỉ ông sử dụng không còn thỏa mãn đối với các vật thể di chuyển gần vận tốc của ánh sáng. Khi Einstein hoàn thiện thuyết tương đối tổng quát, ông đã sửa lại thiếu sót này và tiên đoán được giá trị đúng của độ lệch tia sáng đi gần Mặt Trời.
Từ Praha, Einstein đăng một bài báo về các hiệu ứng của hấp dẫn tác động lên ánh sáng, đặc biệt là dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và độ lệch ánh sáng do hấp dẫn. Bài báo đã thúc đẩy các nhà thiên văn học xác định độ lệch tia sáng trong quá trình quan sát nhật thực. [102] Nhà thiên văn người Đức Erwin Finlay-Freundlich đã công bố tiên đoán của Einstein ra toàn thế giới để cộng đồng các nhà khoa học được biết đến.[103]
Einstein đã suy nghĩ về bản chất trường hấp dẫn trong các năm 1909-1912, nghiên cứu các tính chất của chúng bằng các thí nghiệm tưởng tượng đơn giản. Trong đó có thí nghiệm về một cái đĩa quay. Einstein tưởng tượng ra một quan sát viên thực hiện các thí nghiệm trên một cái bàn quay. Ông chú ý rằng quan sát viên có thể đo được một giá trị khác cho hằng số toán học pi so với trong hình học Euclid. Lý do là vì bán kính của một đường tròn là không đổi do được đo với một cái thước không bị co độ dài, nhưng theo thuyết tương đối hẹp chu vi của đường tròn dường như lớn hơn do cái thước dùng để đo chu vi bị co ngắn lại.
Mặt khác Einstein tin tưởng rằng các định luật vật lý là cục bộ, được miêu tả bởi các hệ tọa độ cục bộ, ông kết luận rằng không thời gian có thể bị cong. Điều này dẫn ông đến nghiên cứu hình học Riemann, và hình thành lên ngôn ngữ của thuyết tương đối tổng quát.
Thuyết tương đối rộng
{\displaystyle G_{\mu \nu }+\Lambda g_{\mu \nu }={8\pi G \over c^{4}}T_{\mu \nu }} |
Giới thiệu · Mô hình Toán học Tham khảo · Kiểm chứng · Lịch sử |
Các khái niệm cơ sở[hiện] |
Hiệu ứng và hệ quả[hiện] |
Các phương trình[hiện] |
Các lý thuyết phát triển[hiện] |
Các nghiệm[hiện] |
Nhà vật lý[hiện] |
Không thời gian[hiện] |
|
Năm 1912, Einstein trở lại Thụy Sĩ để nhận chức danh giáo sư tại nơi ông từng học, trường ETH. Khi ông trở lại Zurich, ngay lập tức ông đến thăm người bạn cùng lớp đại học ETH là Marcel Grossmann, bây giờ trở thành giáo sư toán học. Einstein đã hỏi Grossmann có thứ hình học miêu tả không gian cong không và ông ta đã giới thiệu cho ông hình học Riemann và tổng quát hơn là hình học vi phân. Theo đề nghị của nhà toán học người Ý Tullio Levi-Civita, Einstein bắt đầu khám phá ra sự hữu ích của nguyên lý hiệp biến tổng quát (cơ bản là sử dụng tenxơ) cho lý thuyết hấp dẫn mới của ông. Có lúc Einstein nghĩ rằng có một số sai lầm với cách tiếp cận này, nhưng sau đó ông đã quay trở lại với nó, và cuối năm 1915, ông đã công bố thuyết tương đối rộng theo dạng ngày nay của lý thuyết.[104] Lý thuyết này giải thích hấp dẫn là do sự cong của không thời gian do vật chất, ảnh hưởng tới chuyển động quán tính của các vật chất khác. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Liên minh trung tâm chỉ có thể được thực hiện tại các viện Hàn lâm của liên minh này, vì lý do an ninh quốc gia. Một vài nghiên cứu của Einstein đã đến được Vương quốc Anh và Hoa Kỳ thông qua nỗ lỗ lực của nhà vật lý người Áo Paul Ehrenfest và của các nhà vật lý người Hà Lan, đặc biệt là Nobel gia Hendrik Lorentz và Willem de Sitter của Đại học Leiden. Sau khi chiến tranh kết thúc, Einstein vẫn duy trì mối liên hệ của ông với trường Đại học Leiden, và nhận làm giáo sư đặc biệt cho trường này trong mười năm, từ 1920 đến 1930, Einstein thường xuyên đến Hà Lan để giảng dạy.[105]
Bức ảnh chụp nhật thực của Eddington, xác nhận tiên đoán của lý thuyết Einstein rằng ánh sáng bị "bẻ cong." Vào ngày 7/11/1919, tạp chí hàng đầu của vương quốc Anh The Times được phát hành với tiêu đề: "Cách mạng trong khoa học – Lý thuyết mới của vũ trụ – Tư tưởng của Newton đã bị lật đổ."[106]Năm 1917, một vài nhà thiên văn học chấp nhận lời đề xuất năm 1911 của Einstein khi ông ở Praha. Đài quan sát núi Wilson ở California, Hoa Kỳ, công bố kết quả phân tích phổ của Mặt Trời cho thấy không có sự dịch chuyển đỏ do hấp dẫn.[107] Năm 1918, Đài quan sát Lick, cũng ở California, thông báo rằng rất khó có thể bác bỏ được tiên đoán của Einstein, mặc dù kết quả của họ không được công bố.[108]
Tuy nhiên vào tháng 5 năm 1919, một đội các nhà thiên văn học do Arthur Stanley Eddington dẫn đầu đã xác nhận rằng tiên đoán của Einstein về sự bẻ cong của tia sáng do hấp dẫn của Mặt Trời trong khi chụp các bức ảnh trong quá trình nhật thực tại Príncipe, một hòn đảo nằm phía tây châu Phi đồng thời với một đoàn thám hiểm ở Sobral, phía bắc Brasil.[103] Nobel gia Max Born tán dương thuyết tương đối tổng quát như là "một kỳ công lớn nhất của tư duy con người về tự nhiên";[109] và Nobel gia người Anh Paul Dirac nói "nó có thể là khám phá khoa học lớn nhất đã từng được phát hiện".[110] Các phương tiện thông tin quốc tế lan truyền khám phá này khiến Einstein trở nên nổi tiếng khắp thế giới.
Đã có những ý kiến cho rằng việc kiểm tra lại các bức ảnh của đoàn thám hiểm Eddington cho thấy độ lớn sai số của thí nghiệm bằng với kết quả thu được từ hiệu ứng mà Eddington đã đo để chứng minh, và đoàn thám hiểm người Anh năm 1962 đã kết luận là phương pháp đã đo là không đủ tin cậy.[49] Sự bẻ cong của tia sáng trong quá trình nhật thực đã được xác nhận bởi các quan sát chính xác hơn sau đó.[111] Về sau, nhiều thí nghiệm sau này đã xác nhận các tiên đoán của thuyết tương đối rộng.[104] Cùng với sự mới nổi tiếng của Einstein, nhiều nhà khoa học Đức thời đó đã có những động thái để chống lại Einstein cũng như các công trình của ông.[112][113]
Sóng hấp dẫn
Năm 1916, Einstein dự đoán tồn tại sóng hấp dẫn,[114][115] những gợn sóng hình thành từ độ cong của không thời gian mà lan truyền từ nguồn ra bên ngoài như các sóng, chúng mang theo năng lượng dưới dạng bức xạ hấp dẫn. Sự tồn tại của sóng hấp dẫn theo khuôn khổ của thuyết tương đối tổng quát là do bất biến Lorentz đưa đến hệ quả của vận tốc lan truyền hữu hạn đối với các tương tác vật lý mà hấp dẫn tham gia. Ngược lại, sóng hấp dẫn không thể tồn tại trong lý thuyết hấp dẫn của Newton, khi cho rằng tương tác hấp dẫn lan truyền một cách tức thì hay với vận tốc lớn vô hạn.
Sự phát hiện ra sóng hấp dẫn lần đầu tiên, một cách gián tiếp, đến từ những quan sát trong thập niên 1970 về cặp sao neutron quay trên quỹ đạo hẹp quanh nhau, PSR B1913+16.[116] Quan sát cho thấy chu kỳ quỹ đạo của hệ giảm dần chứng tỏ hệ đang phát ra sóng hấp dẫn đúng như miêu tả của thuyết tương đối rộng.[116][117] Dự đoán của Einstein đã được xác nhận vào ngày 11 tháng 2 năm 2016, khi các nhà khoa học thuộc nhóm LIGO công bố đã đo được trực tiếp sóng hấp dẫn lần đầu tiên,[118] vào ngày 14 tháng 9 năm 2015, gần một trăm năm sau ngày ông đăng bài báo về sóng hấp dẫn.[116][119][120][121][122]
Năm 1917, Einstein đã áp dụng thuyết tương đối rộng cho mô hình cấu trúc của vũ trụ trên toàn bộ. Theo dòng suy nghĩ đương thời, ông muốn vũ trụ là vĩnh hằng và bất biến, nhưng trong thuyết mới của ông, sau một thời gian dài lực hấp dẫn có thể hút vật chất về nhau dẫn tới vũ trụ co lại. Để sửa điều này, Einstein đã thay đổi nhỏ thuyết tương đối tổng quát bằng cách đưa ra một khái niệm mới, hằng số vũ trụ học. Với một hằng số vũ trụ dương, cân bằng chống lại lực hấp dẫn, vũ trụ có thể là quả cầu tĩnh vĩnh hằng[123]
Einstein tin tưởng rằng một vũ trụ tĩnh có tính đối xứng cầu sẽ phù hợp về mặt triết học, bởi vì nó tuân theo nguyên lý Mach. Ông đã chỉ ra rằng thuyết tương đối tổng quát gắn chặt với nguyên lý Mach trong trường hợp mở rộng hiệu ứng kéo hệ quy chiếu bằng trường hấp dẫn từ, nhưng ông biết rằng ý tưởng của Mach sẽ không đúng nếu vũ trụ cứ mở rộng ra vô hạn. Trong một vũ trụ đóng, ông tin rằng nguyên lý Mach sẽ được thỏa mãn.
Nguyên lý Mach cũng đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong nhiều năm.
Sau nhiều lần di chuyển của chồng, Mileva đã quyết định định cư hẳn cùng với các con ở Zurich năm 1914. Einstein đến Berlin một mình, tại đây ông trở thành thành viên của Viện hàn lâm Khoa học Phổ và là giáo sư tại Đại học Humboldt ở Berlin, mặc dù với một điều khoản đặc biệt trong bản hợp đồng là ông sẽ được tự do trong việc phải giảng dạy. Einstein trở thành chủ tịch của Hội Vật lý Đức (1916-1918))[48]và là giám đốc Viện Kaiser Wilhelm về Vật lý (1914–1932).[124]Năm 1917, tại đỉnh cao của công việc nghiên cứu thuyết tương đối, Einstein xuất bản một bài báo trong ''Physikalische Zeitschrift đề xuất khả năng tồn tại phát xạ kích thích, một quá trình vật lý giúp hiện thực được maser và laser.[125] Bài báo này chỉ ra rằng tính thống kê của sự hấp thụ và bức xạ ánh sáng chỉ có thể phù hợp với định luật phân bố Planck khi sự bức xạ của ánh sáng trong một chế độ với n photon sẽ gần với tính thống kê hơn so với sự bức xạ của ánh sáng trong chế độ không có photon. Bài báo này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển sau này của cơ học lượng tử, bởi vì nó là bài báo đầu tiên chỉ ra tính thống kê của sự chuyển dịch trạng thái nguyên tử tuân theo những định luật đơn giản. Einstein đã phát hiện ra nghiên cứu của Louis de Broglie, và đã ủng hộ những ý tưởng của ông, khi Einstein lần đầu tiên nhận được những ý tưởng phác thảo này. Một bài báo lớn khác trong thời kì này, Einstein đã viết ra phương trình sóng cho các sóng de Broglie, trong đó Einstein đã đề xuất từ phương trình Hamilton–Jacobi của cơ học. Bài báo này đã khích lệ các nghiên cứu của Schrödinger năm 1926.
Năm 1924, Einstein nhận được một miêu tả về mô hình thống kê từ nhà vật lý người Ấn Độ Satyendra Nath Bose, trên cơ sở một phương pháp đếm với giả sử ánh sáng có thể được hiểu là khí của các hạt không thể phân biệt được. Einstein chú ý tới rằng thống kê của Bose có thể áp dụng cho một số nguyên tử có tính chất tương tự các hạt ánh sáng được đề xuất, và ông gửi bản dịch bài báo của Bose tới tạp chí Zeitschrift für Physik. Einstein cũng tự viết các bài báo miêu tả mô hình thống kê này và những hệ quả của nó, bao gồm hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein mà trong một số trường hợp đặc biệt có thể xuất hiện tại nhiệt độ rất thấp..[7] Cho đến tận năm 1995, vật chất ngưng tụ lần đầu tiên đã được tạo ra bằng thực nghiệm bởi Eric Allin Cornell và Carl Wieman nhờ sử dụng các thiết bị siêu lạnh được lắp đặt tại NIST–phòng thí nghiệm JILA tại Đại học Colorado ở Boulder.[126] Thống kê Bose-Einstein bây giờ được sử dụng để miêu tả hành xử của những hạt có spin nguyên, các boson. Những phác thảo của Einstein cho nghiên cứu này có thể xem tại "Einstein Archive" trong thư viện của đại học Leiden.[82]
Thuyết tương đối rộng bao gồm một không thời gian động lực, do vậy nó rất khó để tìm cách thống nhất các đại lượng bảo toàn năng lượng và động lượng. Định lý Noether cho phép những đại lượng được xác định từ hàm Lagrangian với bất biến tịnh tiến, nhưng hiệp biến tổng quát làm cho bất biến tịnh tiến trở thành một phần của đối xứng gauge. Tenxơ ứng suất - năng lượng trong phương trình trường Einstein không chứa năng lượng trường hấp dẫn, bởi vì theo nguyên lý tương đương bằng việc lựa chọn hệ quy chiếu cục bộ thích hợp, trường hấp dẫn sẽ biết mất. Năng lượng và động lượng bao hàm cả năng lượng hấp dẫn được dẫn ra từ thuyết tương đối rộng theo định lý Noether không phải là một tenxơ thực vì lý do như vậy.
Einstein lập luận rằng điều này là đúng với những lý do cơ bản, bởi vì trường hấp dẫn có thể xuất hiện hoặc biến mất bằng cách chọn các tọa độ. Ông ủng hộ rằng giả tenxơ không hiệp biến năng lượng động lượng thực chất là cách miêu tả tốt nhất sự phân bố năng lượng và động lượng trong một trường hấp dẫn.[127][128] Cách tiếp cận này đã được phát triển bởi Lev Landau và Evgeny Lifshitz,[129] và những người khác, và đã trở thành một tiêu chuẩn.
Việc sử dụng các đối tượng không-hiệp biến như các giả tenxơ đã bị phê phán nhiều bởi Erwin Schrödinger và những người khác năm 1917.
Tiếp theo nghiên cứu của ông về thuyết tương đối tổng quát, Einstein bắt tay vào chuỗi những cố gắng để tổng quát hóa lý thuyết hình học của ông về hấp dẫn, cho phép kết hợp được với tương tác điện từ. Năm 1950, ông miêu tả "thuyết trường thống nhất" của ông trong tạp chí Scientific American với tiêu đề "Về lý thuyết tổng quát của hấp dẫn".[130] Mặc dù ông tiếp tục được ca ngợi cho các công trình của ông, Einstein đã dần dần bị đơn độc trong con đường nghiên cứu thuyết thống nhất này, và những nỗ lực của ông đã hoàn toàn bị thất bại.
Trong việc theo đuổi một lý thuyết thống nhất các lực cơ bản của tự nhiên, Einstein đã bỏ qua một số hướng phát triển chính của vật lý thời đó, điển hình nhất là việc nghiên cứu các lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu, chúng chưa được hiểu triệt để cho đến tận nhiều năm sau khi ông mất. Mặt khác, các xu hướng vật lý lại chủ yếu bỏ qua các phương pháp tiếp cận của ông đối với lý thuyết thống nhất; với cơ học lượng tử là khuôn khổ chính, lý thuyết mà ông không chấp nhận hoàn toàn về tính mô tả thực tại của nó. Giấc mơ của Einstein để thống nhất mọi định luật vật lý khác với hấp dẫn đã thôi thúc một cuộc tìm kiếm hiện đại cho một lý thuyết của mọi vật và đặc biệt là thuyết dây, trong đấy các trường hình học được kết hợp với lý thuyết trường lượng tử hay hấp dẫn lượng tử.
Trong nghiên cứu thuyết trường thống nhất, Einstein đã hợp tác với các nhà khoa học khác để đưa ra mô hình về một lỗ sâu.[131] Mục đích của ông là thiết lập mô hình các hạt cơ bản với các tích (điện tích) của chúng như là một nghiệm của phương trình trường hấp dẫn, được đăng trong một bài báo với tiêu đề "Liệu trường hấp dẫn đóng một vai trò quan trọng trong cấu tạo của các hạt cơ bản?". Những nghiệm này cắt và dán các lỗ đen Schwarzschild để tạo ra một cầu nối giữa hai miền không gian.
Nếu cuối một lỗ sâu mang điện tích dương, thì đầu kia của lỗ sâu phải mang điện tích âm. Những tính chất này dẫn Einstein đến sự tin tưởng rằng cặp các hạt và phản hạt có thể được miêu tả theo cách này.
Để có thể kết hợp spin của các hạt điểm vào trong thuyết tương đối tổng quát, liên thông aphin cần được tổng quát hóa để bao gồm được phần phản xứng, gọi là tenxơ xoắn. Năm 1922 nhà toán học Élie Cartan lần đầu tiên tiếp cận với đề xuất này[132] và tiếp tục mở rộng lý thuyết trong các năm sau.[133] Einstein cũng tham gia vào phát triển lý thuyết này vào năm 1928 với những nỗ lực không thành công khi sử dụng tenxơ xoắn để miêu tả trường điện từ trong thuyết trường thống nhất của ông.[134]
Năm 1935, Einstein trở lại với cơ học lượng tử. Ông đã xét sự ảnh hưởng như thế nào của một hạt trong hệ hai hạt vướng víu với nhau đối với hạt kia. Ông đưa ra cùng với các cộng sự của ông rằng, bằng cách thực hiện các phép đo khác nhau trên một hạt ở rất xa, hoặc là về vị trí hoặc về động lượng, và các tính chất của hạt đối tác trong cặp vướng víu này có thể được khám phá mà không làm ảnh hưởng đến trạng thái của chính nó.
Einstein do vậy đã sử dụng tính thực tại cục bộ để kết luận là những hạt khác có những tính chất này đã được định sẵn. Nguyên lý ông đề xuất là nếu có thể xác định được câu trả lời về vị trí hay động lượng qua phép đo một hạt đối tác, mà không ảnh hưởng đến hạt kia, thì các hạt thực sự có giá trị chính xác về vị trí hoặc động lượng, điều này mâu thuẫn với nguyên lý bất định Heisenberg.
Nguyên lý này được rút ra từ quá trình phản bác của Einstein về cơ học lượng tử. Là một nguyên lý vật lý, nó đã được chứng minh là không tương thích với các kết quả thí nghiệm.
Thuyết tương đối rộng có hai định luật cơ bản; - phương trình trường Einstein miêu tả sự cong của không gian, và phương trình trắc địa miêu tả sự di chuyển của các hạt trong trường hấp dẫn.
Do các phương trình trong thuyết tương đôi tổng quát là phi tuyến, một lượng năng lượng xác định một trường hấp dẫn thuần túy, giống như hố đen, sẽ di chuyển trên một quỹ đạo được xác định bởi chính phương trình trường Einstein, không cần tới các định luật mới. Vì thế EInstein đề xuất rằng quỹ đạo của một nghiệm kì dị, giống như hố đen, có thể được xác định là một đường trắc địa từ chính thuyết tương đối rộng.
Phương trình này được Einstein, Infeld và Hoffmann viết ra cho các vật thể hạt điểm không có mô men động lượng, và bởi Roy Kerr cho các vật thể quay.
Ngoài sự cộng tác trong một thời gian dài với các nhà khoa học Leopold Infeld, Nathan Rosen, Peter Bergmann và những người khác, Einstein cũng từng cộng tác trong một thời gian ngắn với nhiều nhà khoa học.
Tranh luận Bohr-Einstein
Bài chi tiết: Tranh luận Bohr-Einstein Einstein và Niels Bohr, 1925Tranh luận Bohr-Einstein là chuỗi các sự kiện phê bình giữa hai trong số những người sáng lập ra cơ học lượng tử là Albert Einstein và Niels Bohr về bản chất thực tại của lý thuyết này. Tranh luận của hai người không chỉ có ý nghĩa trong triết học của khoa học mà còn là động lực để các nhà lý thuyết và thực nghiệm lượng tử khám phá ra những tính chất mới đồng thời bổ sung cho nền tảng lý thuyết.[135][136][137]
Thí nghiệm Einstein-de Haas
Bài chi tiết: Hiệu ứng Einstein-de HaasEinstein và De Haas đã chứng tỏ rằng sự từ hóa là do chuyển động của các electron mà ngày nay được biết là spin. Để chỉ ra điều này, họ đảo ngược sự từ hóa trong một thanh thép treo trên một con lắc xoắn. Hai người quan sát thấy rằng thanh thép bị quay đi một góc, bởi vì mô men động lượng của electron bị thay đổi khi thay đổi sự từ hóa. Thí nghiệm này cần sự tinh tế, bởi vì mô men động lượng gắn với electron là nhỏ, nhưng nó cũng đủ để chứng minh chuyển động của electron vì một lý do nào đó ảnh hưởng đến sự từ hóa.[138][139]
Mô hình khí Schrödinger
Einstein gợi ý cho Erwin Schrödinger rằng ông có thể suy lại được sự thống kê của khí Bose–Einstein bằng xét đến một hộp. Sau đó mỗi chuyển động lượng tử khả dĩ của một hạt trong một hộp được gắn với một dao động tử điều hòa độc lập. Lượng tử hóa những dao động tử này, mỗi mức có một số nguyên tương ứng, sẽ là số các hạt trong hộp.
Phương pháp này là một phần của lượng tử hóa chính tắc, nhưng nó đi ngược lại cơ học lượng tử hiện đại. Erwin Schrödinger áp dụng điều này để dẫn ra các tính chất nhiệt động của khí lý tưởng bán cổ điển. Schrödinger đã đề nghị Einstein để đưa thêm ông vào đồng tác giả, nhưng Einstein đã từ chối lời mời này.
e hãy viết cảm nghĩ của e về nhà khoa hok mà e kính yêu & hãy cho bít, e đã hok đc j từ nhà khoa hok đó
Câu trả lời của bạn
Người đầu tiên trong danh sách là nhà vật lý Albert Einstein, ông sinh ra trong một gia đình gốc Do Thái. Ông là một nhà vật lý lý thuyết người Đức, được coi là cha đẻ của vật lý hiện đại và cũng là người phát triển thuyết tương đối. Đây được coi là thành tựu lớn nhất trong cuộc đời ông. Ông nhận được giải Nobel vật lý năm 1921. Trong suốt cuộc đời mình ông đã công bố hơn 300 bài báo khoa học cùng 150 đề tài ngoài khoa học. Có một điều thú vị rằng 3 tuổi Einstein mới biết nói và cho đến năm 8 tuổi - khi bắt đầu học đọc ông vẫn nói không thạo. Tuy nhiên ông lại bắt đầu mày mò với khoa học từ rất sớm, từ khoảng 10 tuổi ông đã bắt đầu mày mò làm các mô hình và thiết bị cơ học.
Em đã được học từ ông ấy rằng phải tự suy nghĩ và làm những gì mình cho là đúng không dựa vào người khác mà phải làm bằng chính đôi tay của mình. MÌNH VIẾT NGẮN THẾ CŨNG ĐƯỢC NHAhòa tan 8,5 g hh X gồm Na và Na20 vào 200g nước (dư).Sau pứ thu đc đ y và 1,12 l khí H ở đktc.
a) viết 2 PTHH xảy ra,dd y là dd gì?
b) Tính khối lượng Na và Na20 trog hh X
c) tính khối lượng dd y và nồng độ phần trăm chất tan có trong dd y
Câu trả lời của bạn
a) pthh: 2Na + 2H2O => 2NaOH + H2 (1)
Na2O + H2O => 2NaOH (2)
Sau khi xảy ra phản ứng sẽ sinh ra NaOH, vậy dd Y là dd NaOH
b) nH2 = 1.12/22.4 = 0.05 (mol)
theo pthh (1): nNa= nNaOH = 2nH2 = 2 x 0.05 = 0.1 (mol)
⇒ mNa phản ứng= mNa trong hh X = 0.1 x 23 = 2.3 g
mNa2O trong hh Y= 8.5 - 2.3 = 6.2g
c) mdd Y= mdd sau pứ= mhhX + mH2O - mH2 = 8.5 +200 -1.12=207.38g
nNa2O pứ = 6.2/62 = 0.1 (mol)
theo pthh (2): nNaOH = nNa2O pứ = 0.1 (mol)
nNaOH được sinh ra sau phản ứng = 0.1 +0.1 = 0.2 (mol)
mNaOH = 0.2 x 40 = 8g
Ta có C% =\(\dfrac{mct}{mdd}\times100\%\)
⇒ C%dd NaOH = \(\dfrac{8}{207.38}\times100\%\) = 3.86%
Lấy ví dụ chứng minh hóa học có vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta ?
Câu trả lời của bạn
Hóa học có vai trò rất lớn trong cuộc sống hàng ngày, sản xuất...
Cuộc sống hàng ngày: Quần áo, thuốc chữa bệnh, sách vở...
Trong nông nghiệp, công nghiệp: Phân bón, thuốc trừ sâu, các loại máy móc... vì vậy có hóa học, con người đã tạo ra nhiều chất theo ý muốn.
⇒ Môn hoá hoc có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.
HOK TỐT!!
Hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống. Qua đó thấy được hóa học đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Nhiều vật dụng trong gia đình như nồi, soong, bát, giày, dép hay quần áo, dụng cụ học tập, dụng cụ lao động hằng ngày,… đều bắt nguồn từ hóa học. Thức ăn, nước uống, thuốc chữa bệnh là những thứ thiết yếu từ cuộc sống. Chúng cũng liên quan đến hóa học, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của con người.
Hóa học có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.
Là một trong những môn học có giá trị thực tiễn cao nhất, hóa học hiện diện ở mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Hầu như mỗi một vật dụng nào chúng ta đang sử dụng cũng là kết quả của hoá học.
Từ những món ăn hàng ngày, những đồ đồ dùng học tập, thuốc chữa bệnh. Đến các huơng thơm dịu nhẹ của nước hoa, mỹ phẩm, dược phẩm… đều là những sản phẩm hóa học.
Vai trò của hóa học với các môn khoa học khác
Hóa học được mệnh danh là “khoa học trung tâm của các ngành khoa học”. Vì có rất nhiều ngành khoa học khác đều lấy hóa học làm cơ sở nền tảng để phát triển. Ví dụ như sinh học, y học, vật lý hay khoa học tội phạm…
Trong y học người ta sử dụng hóa học để tìm kiếm những loại thuốc, dược phẩm mới cho việc trị bệnh và nâng cao sức khỏe con người.
Trong vật lý người ta tìm kiếm những nguyên vật liệu chuyên dụng cho các dụng cụ, vật liệu… khác nhau bằng hóa học.
Trong quá trình tìm kiếm tội phạm, người ta sử dụng hóa học vào việc truy tìm ra dấu vết còn sót lại tại các hiện trường vụ án. Bằng cách dùng chất luminol, một chất phản ứng phát quang với sắt có trong máu để tìm ra vết máu dù đã bị xóa.
Vai trò của hóa học trong công nghiệp
Hóa học còn là cơ sở cho nhiều ngành công nghiệp khác phát triển như điện tử, luyện kim, dược phẩm…
Từ hàng ngàn năm trước, hóa học đã xuất hiện với một cái tên vô cùng thú vị “Giả kim thuật”. Giả kim thuật do những nhà giả kim thời xa xưa nghiên cứu kim loại. Với mục đích lớn nhất là để biến đổi những chất bình thường, giá thành rẻ thành những chất kim loại quý hiếm như vàng.
Ví dụ như trộn hỗn hợp đồng đỏ và thiếc để có được một hợp chất giống như vàng. Cho lưu huỳnh vào chì hoặc thiếc thì hai kim loại này sẽ biến đổi thành màu bạc… Đây cũng chính là nguồn gốc của công nghệ luyện kim hiện đại ngày nay.
Ai học Hóa rồi cho biết nó khó hay dễ đi ?
Câu trả lời của bạn
Tùy từng người, t cx mới học nhưng thây ns cx bình thường :v
Hóa thì có cả khó và dễ. Đối với những bạn yêu thích Hóa thì bạn lại luôn tìm kiếm những dạng khó để làm. Đối với những người ko thích thì ko chú tâm vào bài tập.
Tại sao họ lại ko thích một môn nào đó (VD hóa) anh? Theo mk nghĩ là họ đã ko tập trung ngay kiến thức cơ bản nên dần dần cảm giác nó khó hiểu => kém Hóa.
Lời khuyên cho bạn nếu chưa học Hóa hay đang bắt đầu!!!! Môn nào cx có cái hay cái khó nên Bn phải cố gắng học hiểu nhé. Chuẩn bị trước, tìm hiểu trước ở nhà để khi Lên lớp hiểu rõ hơn..
Các môn cx vậy! Fighting!!!
Theo em , câu hỏi của Phle - minh là gì ?
Giản thuyết trong nghiên cứu của ông là gì ?
Câu trả lời của bạn
Theo em , câu hỏi của Phle - minh là gì ?
Cái gì đã giết chết các vi khuẩn cầu chùm?
Giản thuyết trong nghiên cứu của ông là gì ?
Chất dịch meo có thể ngăn chặn một số vi khuẩn nguy hiểm nhất không cho chúng phát triển
Cho ví dụ về quai trò của hóa học?
Câu trả lời của bạn
Hoá học đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống, sản xuất, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Những thành tựu của hoá học được ứng dụng vào các ngành y dược, vật liệu, năng lượng, dược phẩm, công nghệ sinh học, nông – lâm – ngư nghiệp, khai thác khoáng sản,…
VAI TRÒ CỦA HÓA HỌC Hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống. Hóa học không thích phô trương bản thân mình. Nó có mặt xung quanh chúng ta trong những sản phẩm nhỏ bé hàng ngày, đồng thời cũng không thể thiếu bóng hóa học trong những thành tựu ngoạn mục của thế giới. Người ta đã gọi hóa học là một khoa học trung tâm của các khoa học khác, bởi nếu không có hóa học thì không thể có những bước đột phá thăm dò vào không gian, không thể có những phát minh mới trong điều trị bệnh, không thể có những khám phá kì diệu về công nghệ. Hóa học đóng góp rất lớn trong lĩnh vực thực phẩm, thuốc men, năng lượng, nguyên vật liệu, vận chuyển và thông tin liên lạc. Nó cung cấp nguyên liệu cho lĩnh vực vật lý, các chất cơ bản cho sinh học, dược học cũng như nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác. Một thế giới không có hóa học sẽ không có vật liệu tổng hợp. Điều đó có nghĩa là sẽ không có những vật dụng hàng ngày chúng ta thường sử dụng như: điện thoại, máy tính, quần áo..., và cũng sẽ là một thế giới không có aspirin hoặc xà phòng, dầu gội, kem đánh răng, mỹ phẩm, sẽ không có giấy rồi không có báo chí, sách, keo hoặc sơn. Không có hóa học, sẽ không có các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, điều đó đồng nghĩa với việc thiếu lương thực, và không có những loại nước hoa tạo mùi hương quyến rũ. Chúng ta cũng không quên rằng, hóa học còn giúp các nhà sử học nghiên cứu về các bí mật đằng sau các bức tranh, tác phẩm điêu khắc nghệ thuật, giúp cho các nhà khoa học pháp y phân tích mẫu từ một hiện trường gây án, từ đó nhanh chóng tìm ra thủ phạm. Trong khi ngành vật lý có nhiệm vụ giải mã các quy luật của vũ trụ, ngành sinh vật học giải mã thế giới sống thì ngành hóa học là khoa học của vật chất và sự biến đổi của nó. Hóa học đóng một vai trò quan trọng hàng đầu cho sự hiểu biết của nhân loại về các hiện tượng vật chất, khả năng của con người hành động theo chúng để kiểm soát và thay đổi chúng. Trong khoảng gần 2 thế kỷ nay, hóa học phân tử đã đưa ra một loạt các vấn đề về phân tử cũng như vật liệu tinh vi. Từ sự tổng hợp Urê năm 1828, hóa học bắt đầu một cuộc cách mạng thật sự. Đó là một bằng chứng cho thấy đã tạo ra được một phân tử hữu cơ từ các thành phần vô cơ. Đến sự ra đời và phát triển như vũ bão của vật liệu nano trong khoảng 2 thập niên trở lại đây càng cho thấy rõ bức tranh nghệ thuật của hóa học trong lĩnh vực vật chất của mình. Hóa học có thể chế tạo ra hàng loạt các vật liệu có cấu trúc đặc biệt, ở kích thước nano. Và các vật liệu này sẽ đem lại một cuộc cách mạng lớn trong công nghệ khi được ứng dụng vào các thiết bị điện tử, trị liệu y học, dược liệu, năng lượng, mỹ phẩm…
cho ví dụ về hiện tượng vật lí và hiện tượng hóa học(mỗi thứ 3 ví dụ)
Câu trả lời của bạn
Hiện tượng vật lí :
* Nước đang đun sau 1 thời gian nó sôi lên
* Quần áo phơi ở ngoài nắng sẽ khô
* Gương là tấm phản xạ ánh sáng
Hiện tượng hóa học :
* Nước uống bị điện phân thành Hidro và Oxi
2H2O --( điện phân )-->2H2 + O2
* Vôi bỏ thêm nước thành vôi sống
Ca + 2H2O --> Ca(OH)2 + H2
* Natri để ngoài sẽ bị tác dụng Oxi
4Na + O2 --> 2Na2O
Hiện tượng vật lý:
+ Hòa tan mực vào nước
+ Nước đá tan
+ Cây nến đang cháy bị nóng chảy
+ Chai rượu không đậy nút lâu ngày rượu bị bay hơi vào vơi dần
+ Nước bay hơi
Hiện tượng hóa học:
+ Trứng để lâu ngày bị thối
+ Thức ăn để lâu ngày bị ôi thiu
+ Để sắt ngoài không khí bị gỉ
+ Thổi hơi thở vào nước vôi trong thì nước vôi trong bị vẩn đục.
+ Hiện tượng ma trơi là hiện tượng photpho bốc cháy trong không khí tạo thành ngọn lửa màu vàng.
Hiện tượng hóa học như:,hay hiện tượng sét
Hiện tượng vật lý như:độ tan của 1 chất trong dung dịch(hiện tượng muối tan trong nước,xăng dầu nổi trên nước) , hay hiện tượng nước đá tan,nước hóa hơi...
nước đá chảy thành nước thường và đun lên thì thành hơi nước.
sự gỉ sét của kim loại vì bị oxi hóa.
VD :
VD: ngâm trứng vào giấm
cho mình hỏi nếu tự học hóa ở nhà thì có hiệu quả không?nếu có thì mình phải học thế nào?
Câu trả lời của bạn
Bạn có thể tự học ở nhà được ( nếu có tính tự giác học cao )
Có thể nghe giảng - làm bài tập trên mạng, hóa không khó lắm nếu chăm chỉ học ngay từ đầu sẽ thấy dễ hiểu. Nếu không thì bạn có thể học thêm nếu cần :)
Nếu bn chăm chỉ tìm hiểu thì sẽ hiệu quả thôi ạ
Còn cách học thì:
+ Học thuộc bảng tuần hoàn
+ Học tất cả các khái niệm và học cách giải quyết vấn đề từng bước một
+ Khi gặp khó trong các bài tính toán thì cần bình tĩnh suy nghĩ từng bước một
+ Làm giấy nhớ
+ Ko hiểu các cách tính toán thì bn có thể nhờ bn bè hoặc thầy cô giảng thêm
Neu các biện pháp rửa tay hợp vệ sinh
Trình bày tác dụng của viecj dùng màn khi ngủ
Câu trả lời của bạn
- Bước 1: Làm ướt tay và chà sát vào cục xà bông hoặc lấy một chút nước rửa tay chứa cồn vào lòng bàn tay.
- Bước 2: Chà rửa hai lòng bàn tay với nhau như bình thường rồi đan các ngón tay với nhau để làm sạch các kẽ ngón tay.
- Bước 3: Xoa lòng bàn tay phải lên mu bàn tay trái với các ngón tay đan nhau để các kẽ tay được làm sạch và ngược lại.
- Bước 4: Móc hai bàn tay vào nhau và chà sạch khe các ngón tay bằng cách xoay cổ tay nửa vòng.
- Bước 5: Nắm chặt ngón tay cái bàn tay phải và chà rửa ngón tay theo chuyển động tròn rồi đổi tay.
- Bước 6: Chụm đầu các ngón tay của bàn tay này và chà sạch đầu các ngón tay vào lòng bàn tay kia và ngược lại. Rửa sạch tay dưới vòi nước, sau đó dùng khăn sạch thấm khô tay.
Rửa tay và rửa tay với xà phòng từ lâu được xem là một trong những biện pháp phòng bệnh tay chân miệng, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh viêm gan A, E,…bệnh về giun sán rất hiệu quả và khâu rửa tay cũng vô cùng quan trọng không kém, thế như dù các vụ dịch hay đợt bùng phát bệnh tiêu chảy, bệnh tay chân miệng thường diễn ra tại nhiều tỉnh thành trong cả nước, nhưng thói quen rửa tay hình như chưa thực hiện một cách toàn diện, tích cực trong toàn dân, đặc biệt là trẻ em, người lớn và người đang nuôi hoặc chăm sóc trẻ ốm….Để giúp cho cộng đồng có thói quen rửa tay và phải rửa đúng cách, chúng tôi xin chia sẻ một số thông tin liên quan đến phòng bệnh nhiễm trùng thông qua rửa tay bằng xà phòng!
Từ những con só thực tế: chỉ có 12% dân số rửa tay với xà phòng
Rửa tay với xà phòng diệt khuẩn được hiểu như liều “vắc-xin” hiệu quả, tiết kiệm phòng ngừa hữu hiệu các bệnh tay chân miệng, bệnh đường tiêu hóa, … mà lúc cũng có thể thực hiện để bảo vệ sức khỏe.Thế nhưng, khảo sát của Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc cho thấy: có từ 84-88% dân số không rửa tay với xà phòng sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn uống. Và với dịch tay chân miệng, dù Bộ Y tế đã 2 lần khuyến cáo bằng văn bản với người dân: cần rửa tay với xà phòng dưới vòi nước chảy. Song thực tế là...
Người lớn và thói quen… lười rửa tay
Bác sĩ Trương Hữu Khanh - Trưởng khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi đồng 1, Tp. Hồ Chí Minh trong một buổi giao lưu trực tuyến về bệnh tay chân miệng nhận định: “Về lý thuyết, phòng bệnh tay chân miệng thì rất là đơn giản nhưng thực tế thì không phải vậy. Vì từ nhận thức đúng cho đến hành động đúng thì rất xa nên bệnh vẫn xuất hiện, đến hẹn lại lên. Đa số ai cũng biết phòng bệnh tay chân miệng (bệnh lây từ đường tiêu hoá) là rửa tay đúng, vệ sinh ăn uống, sát khuẩn, diệt khuẩn đồ chơi nơi sinh hoạt của trẻ nhưng khi thực hiện thì... quên, nhất là nhà chưa có trẻ mắc bệnh.”
Tại các trường mầm non, mẫu giáo, các con đã được làm quen với chương trình vệ sinh học đường, được các cô tập cho thói quen rửa tay thật sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Thế nhưng về nhà, không ít bé phải nhắc bố mẹ “sao bố mẹ lại chưa rửa tay vậy?” Và nhiều bà mẹ cứ vô tư trả lời: “Tôi rửa tay bằng nước có sao đâu” Hoặc “Tôi đã rửa tay rồi, tại sao phải thực hiện lần nữa”. Khi được hỏi, vì sao lại bỏ qua việc rửa tay với xà phòng diệt khuẩn, nhiều bà mẹ cho rằng: chỉ cần rửa tay với nước, tay nhìn thấy trắng - không mùi nghĩa là đã sạch; Hoặc không nghe/thấy ai nói nhiều đến tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng diệt khuẩn; Hoặc biết nhưng hay quên.
Xà phòng diệt khuẩn - “vắc xin” bị lãng quên
Trong khi đó, dịch tay chân miệng đang lan rộng khó kiểm soát. Số ca bệnh vẫn không ngừng gia tăng và tiến triển vô cùng phức tạp. Tại TP.HCM, mỗi tuần lại có thêm 400 ca bệnh mới. Cục y tế dự phòng (Bộ Y tế) nhận định: Sở dĩ bệnh lây lan nhanh, mạnh một phần xuất phát từ thói quen và ý thức phòng bệnh của cộng đồng còn rất thấp.
Thống kê của tỉnh Quảng Ngãi, 70% trẻ lây bệnh tay chân miệng tại nhà, 30% lây bệnh tại trường. Nhìn vào tỉ lệ này có thể đặt ra câu hỏi: Liệu có sự tương quan nào giữa việc lây bệnh và thói quen vệ sinh khi mà tại các trường mẫu giáo, mầm non luôn luôn phải thực hiện quy định vệ sinh phòng bệnh. Các cô cũng hướng dẫn các con rèn luyện thói quen tốt như rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn…Thế nhưng về nhà, ai là người nhắc trẻ thực hiện hành vi phòng bệnh đúng đắn này?
Một báo cáo khoa học năm 2010 tại Bệnh viện Nhiệt đới cho thấy: có tới 64% bà mẹ không rửa tay trước khi cho trẻ ăn. Các bà mẹ cũng không chú trọng đến việc dạy con trẻ ý thức giữ gìn vệ sinh cho bản thân ngay từ nhỏ, kể cả thói quen rất đơn giản: rửa tay bằng xà phòng diệt khuẩn sau khi chơi, sau khi vệ sinh và trước khi ăn. Trong khi đó, theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ cần một động tác rửa tay sạch là đã giảm tới 35-47% nguy cơ nhiễm các bệnh tay chân miệng, tiêu chảy, thương hàn… Rửa tay với xà phòng diệt khuẩn được hiểu như liều vắc-xin hiệu quả, tiết kiệm mà lúc cũng có thể thực hiện để bảo vệ sức khỏe.
Trong hoạt động truyền thông nhằm thay đổi thói quen vệ sinh của người Việt, nhãn hàng Lifebuoy - Công ty TNHH quốc tế Unilever Việt Nam luôn là một nhân tố tích cực. Không chỉ truyền đi các thông điệp vệ sinh đúng cách, nhãn hàng Lifebuoy còn giúp người dùng ghi nhớ các thời điểm rửa tay qua các chương trình truyền hình, các nhãn dán trên sticker trong hộp xà phòng…
Bà Lê Thùy Lan - đại diện nhãn hàng cho biết: “Các hoạt động này như một cam kết của nhãn hàng với sứ mệnh Vì một Việt Nam khỏe mạnh. Chúng tôi mong các vị phụ huynh và cộng đồng từ nhận thức đó hãy hành động: giữ vệ sinh môi trường, gia đình, tập thói quen vệ sinh cơ thể, giữ bàn tay luôn sạch khuẩn. Có như vậy, chúng ta mới thật sự giúp con em mình ngăn ngừa dịch bệnh ”.
Rửa sạch tay bảo vệ chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng
Các nhà Khoa học đã khuyến cáo: “Rửa tay bằng xà phòng trước bữa ăn và sau khi đi vệ sinh giúp cứu nhiều mạng sống hơn bất kỳ mọi loại thuốc kháng sinh. Nó có thể làm giảm một nửa số ca tiêu chảy trên thế giới, giảm ½ các ca tử vong do viêm phổi và ¼ các ca do bệnh liên quan đến hô hấp”. Tiêu chảy đứng thứ 2 trong số các nguyên nhân gây tử vong, mỗi năm giết hại hơn 1,5 triêu trẻ em. Vị trí quán quân thuộc về bệnh biêm phổi, mỗi năm cướp đi mạng sống của khỏang 2 triệu trẻ dưới 5 tuổi. Rửa tay là một cách hữu hiệu phòng chống các căn bệnh này”.
Bởi thế, từ năm 2008 đến nay, ngày 15/10 được chọn là “Ngày thế giới rửa tay với xà phòng”, với sự kiện hàng triệu người của hơn 20 quốc gia trên thế giới cùng tham gia rửa tay với xà phòng và truyền đi thông điệp về thói quen cá nhân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng thế giới. Ngày hội này giúp mọi người nhận thức được tầm quan trọng của việc rửa tay thường xuyên với xà phòng để phòng chống các bệnh lây truyền theo đường tiêu hóa như tả, lỵ, dịch cúm A (H5N1), cúm A (H1N1), đặc biệt là bệnh tay chân miệng- một trong những bệnh nguy hiểm đang diễn ra hết sức phức tạp trong thời gian gần đây.
Vì sao chúng ta nên rửa tay?
Thường xuyên rửa tay là một trong những cách tốt nhất để tránh bị bệnh và lây lan bệnh tật cho cơ thể. Bởi vì trong quá trình hoạt động cả ngày, bạn sẽ thường xuyên va chạm vào mọi người, các bề mặt và điều này khiến bạn tích lũy nhiều vi khuẩn trên tay. Sau đó, bạn có thể lây nhiễm bệnh tật cho chính bản thân bằng các các hành động vô tình như đưa vi trùng này chạm vào mắt, mũi hay miệng. Mặc dù, bạn không thể giữ tay vô trùng nhưng việc rửa tay thường xuyên có thể giúp bạn hạn chế chuyển giao và lây lan các vi khuẩn, vi rút sang người khác và ngược lại.
Thời điểm nào cần phải rửa tay?
Luôn luôn rửa tay trước khi:
Luôn luôn rửa tay sau khi:
Làm thế nào để rửa tay đúng cách?
Rửa tay không mất nhiều thời gian của chúng mình đâu nhưng nó lại mang đến cho bọn mình nhiều lợi ích để ngăn ngừa bệnh tật. Có thể nói, thói quen đơn giản này đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏecủa chính bạn và gia đìnhchúng mình nữa đấy!
Làm thế nào rửa tay một cách thích hợp?
Rửa tay sạch và hợp lý như là trong thời gian đủ để hát hai lần bài hát "Happy Birthday",
làm theo hình ảnh dưới đây. Cách rửa tay dưới đây không những giúp cho chúng ta phòng chống bệnh tay chân miệng đang hoàn hoành tại nước ta, mà còn bảo vệ tránh khỏ nhiều bệnh nhiễm trùng khác nữa. Mặc dù đang có chiều hướng chững lại nhưng theo dự báo của Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế), các tháng cuối năm 2011 bệnh tay chân miệng có thể sẽ diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát thành dịch.
Những thông tin dưới đây có thể giúp bạn đọc chủ động phòng chống bệnh hiệu quả mà lại rất đơn giản. Theo BS Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm, BV Nhi Đồng 1, TP HCM, tay chân miệng là bệnh do siêu vi trùng đường ruột gây ra. Sở dĩ gọi là tay chân miệng vì bệnh có biểu hiện chính là các mụn nước nổi ở vùng tay, chân, miệng. Tác nhân gây bệnh tay chân miệng có khả năng lây lan rất nhanh qua đường tiếp xúc.
Khi trẻ lành tiếp xúc trực tiếp với trẻ bệnh sẽ bị nhiễm bệnh do nuốt phải nước bọt của trẻ bệnh văng ra khi nói chuyện, ho, hắt hơi. Hoặc trẻ lành cầm nắm đồ chơi, sờ chạm vào sàn nhà bị dính nước bọt, chất tiết mũi họng của trẻ bệnh. Bệnh còn lây cho trẻ qua bàn tay của người chăm sóc trẻ.
Khi xâm nhập vào cơ thể, virus gây bệnh sẽ qua niêm mạc miệng hay ruột vào hệ thống hạch bạch huyết, từ đó sẽ phát triển rất nhanh, gây ra các tổn thương ở da, niêm mạc. Sau thời gian ủ bệnh từ 3 - 6 ngày, trẻ mắc bệnh tay chân miệng sẽ có các biểu hiện: Sốt (có thể sốt nhẹ thoáng qua, cũng có thể sốt cao 39- 400C), đau họng, chảy nước bọt liên tục, biếng ăn hoặc bỏ ăn, khó ngủ, quấy khóc, run chi, giật mình nhiều một cách bất thường và loét miệng với các bóng nước có đường kính 2-3mm, vỡ rất nhanh tạo thành các vết loét khiến trẻ bị tăng tiết nước bọt, thấy đau khi ăn. Ngoài ra còn xuất hiện các bóng nước từ 2-10mm, màu xám, hình bầu dục ở lòng bàn tay và lòng bàn chân. Ngoài các dấu hiệu điển hình trên, bệnh có thể biểu hiện không điển hình như: Bóng nước rất ít xen kẽ với những hồng ban, một số trường hợp chỉ biểu hiện hồng ban, không có biểu hiện bóng nước hay chỉ có biểu hiện loét miệng đơn thuần.
Những biến chứng thường gặp của tay chân miệng là viêm màng não, viêm màng liệt mềm cấp, viêm cơ tim, phù phổi cấp. Các biến chứng có thể phối hợp với nhau như: Viêm não màng não, phù phổi và viêm cơ tim trên cùng một bệnh nhân. Các biến chứng này thường gây tử vong cao và diễn tiến rất nhanh có thể trong 24 giờ.
Theo khuyến cáo của Cục Y tế Dự phòng, cách phòng chống tay chân miệng hiệu quả là rửa tay cho trẻ nhiều lần trong ngày bằng xà phòng và nước sạch. Không để trẻ mút tay, đưa đồ chơi lên miệng. Cho trẻ ăn chín, uống chín, không ăn chung thìa bát. Người chăm sóc trẻ cũng phải rửa tay nhiều lần trong ngày, nhất là trước khi chế biến thức ăn, trước khi cho trẻ ăn và sau khi vệ sinh cho trẻ. Thường xuyên vệ sinh đồ chơi, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất sát khuẩn thông thường hoặc chloraminB.
Về quy trình rửa tay bằng xà phòng, nên thực hiện theo những bước sau:
Thời gian vệ sinh tay tối thiểu cho cả quy trình là 30 giây.
Xử lý khi ngộ độc Chloramin B
Theo BSCKII. Nguyễn Thị Thanh Hà, Trưởng Khoa Chống nhiễm khuẩn, BV Nhi đồng 1, Chloramin khi dùng với mục đích khử khuẩn nguồn nước uống, hồ bơi thường nồng độ thấp, không gây độc và có mùi đặc trưng của clo mà chúng ta thường thấy. Tuy nhiên, khi dùng trong khử khuẩn nồng độ cao hơn mới có khả năng gây kích ứng với một số cơ quan như mắt, da, tiêu hóa, hô hấp và đặc biệt trong trường hợp uống nhầm với nồng độ cao có thể gây ngộ độc. Có thể nhận biết qua các dấu hiệu: Da nổi mẩn đỏ, nôn, buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, chảy nước mắt, ho, khó thở, khò khè...
Khi bị ngộ độc, không nên cố gắng gây nôn mà cần cho nạn nhân uống ngay với một ít nước ấm và dùng vài thìa than hoạt hoặc natribicarbonate để uống trung hòa. Nếu bị ChloraminB bắn vào mắt, nên rửa sạch ngay bằng nước sạch nhiều lần và chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Còn nếu bị bắn hóa chất vào da, quần áo, cần cởi bỏ ngay quần áo bị bắn và rửa da vùng đó bằng nước ấm và xà phòng
tại sao đi ngủ chúg ta thường mắc màn?
Chắc hẳn mọi người đag suy nghĩ mắc màn để tránh muỗi chứ làm gì có phải không ?
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *