Pháp luật nước ta thừa nhận và bảo vệ quyền cơ bản của công dân theo khuôn khổ của pháp luật nước cộng hòa XHCN Việt Nam, trong đócó quyền khiếu nại tố cáo của công . Muốn biết quyền khiếu nại tố cáo của công dân là gì, các quyền đó được thực hiện như thế nào chúng ta sẽ tìm hiểu bài học hôm nay: Bài 18: Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
Qua bài học này các em cần nắm đucợ các nội dung sau:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm GDCD 8 Bài 18 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Công dân có quyền khiếu nại trong trường hợp nào sau đây?
Quyền khiếu nại tố cáo là một trong những quyền:
Công dân thực hiện quyền khiếu nại tố cáo cần:
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập GDCD 8 Bài 18để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Giải bài 1 trang 70 SBT GDCD 8
Giải bài 2 trang 71 SBT GDCD 8
Giải bài 3 trang 71 SBT GDCD 8
Giải bài 4 trang 71 SBT GDCD 8
Giải bài 5 trang 71 SBT GDCD 8
Giải bài 6 trang 71 SBT GDCD 8
Giải bài 7 trang 72 SBT GDCD 8
Giải bài 8 trang 72 SBT GDCD 8
Giải bài 9 trang 72 SBT GDCD 8
Giải bài 10 trang 72 SBT GDCD 8
Giải bài 11 trang 73 SBT GDCD 8
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng GDCD DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
Công dân có quyền khiếu nại trong trường hợp nào sau đây?
Quyền khiếu nại tố cáo là một trong những quyền:
Công dân thực hiện quyền khiếu nại tố cáo cần:
Để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Nhà nước có những trách nhiệm nào sau đây?
Người khiếu nại, tố cáo cần thực hiện trách nhiệm nào sau đây:
Điểm chung giữa chủ thể khiếu nại và tố cáo là?
Điểm khác biệt trong chủ thể về khiếu nại với tố cáo là
Quyền của công dân đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định, việc làm của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công vụ được là?
Quyền của công dân báo cho cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền biết về một việc vi phạm pháp luật được gọi là ?
Khiếu nại và tố cáo có ý nghĩa là?
T là học sinh chậm tiến, thường xuyên giao du với bọn xấu và bị chúng lôi kéo vào con đường hút chích. Có lần chúng bắt T phải lấy trộm tiền của các bạn cùng lớp để nộp cho chúngề Là bạn học cùng lớp với T, em sẽ làm gì để giúp đơ bạn?
Khi phát hiện thấy Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chị Bình vượt quá thẩm quyền, ông Ân (hàng xóm nhà chị Bình) có quyền khiếu nại Quyết định trên của Chủ tịch Ưỷ ban nhân dân quận không? Vì sao?
Hãy nhận xét và phát biểu suy nghĩ của mình về các ý kiến sau:
a) Thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo là tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
b) Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo không phải là tham gia quản lí nhà nước mà chỉ để bảo vệ lợi ích của bản thân công dân.
Nhận xét sự giống và khác nhau giữa quyền khiếu nại, tố cáo (người có quyền khiếu nại, tố cáo và mục đích khiếu nại, tố cáo)
Thế nào là quyền khiếu nại, tố cáo của công dân?
Em hãy phân biệt quyền khiếu nại và quyền tố cáo; nêu ví dụ về quyền khiếu nại, quyền tố cáo.
Công dân có thể thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo như thế nào?
Nhà nước và công dân có trách nhiệm gì trong việc bảo đảm và thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo?
Công dân có trách nhiệm như thế nào trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo?
Công dân có thể thực hiện quyền khiếu nại trong những trường hợp nào sau đây?
A. Không đồng ý với quyết định kỉ luật của hiệu trưởng nhà trường.
B. Không đồng ý với quyết định xử phạt của cơ quan thuế.
C. Báo cho công an về một vụ cướp của.
D. Không đồng ý với quyết định tháo dỡ công trình xây dựng của Uỷ ban nhân dân huyện.
E. Không đồng ý với việc Sao Đỏ ghi tên mình vào danh sách đi học muộn.
G. Không đồng ý với việc cô giáo phê bình mình ở lớp.
H. Không đồng ý với quyết định xử phạt của cảnh sát giao thông.
Công dân có thể thực hiện quyền tố cáo trong những trường hợp nào sau đây?
A. Phát hiện thấy người trộm cắp tài sản của người khác
B. Phát hiện thấy người buôn bán ma tuý
C. Nhìn thấy người cắt dây điện công cộng
D. Bị cảnh sát giao thông giữ xe máy vì vượt đèn đỏ
E. Phát hiện thấy ổ tiêm chính ma tuý
G. Phát hiện thấy kẻ trộm lấy trộm đồ vật trong trường
H. Nhìn thấy người khác đổ rác không đúng nơi quy định.
Những hành vi nào sau đây thể hiện quyền khiếu nại và những hành vi nào thể hiện quyền tố cáo của công dân?
Việc làm | Quyền khiếu nại | Quyền tố cáo |
A. Gửi đơn đề nghị xem xét lại quyết định kí luật của Giám đốc công ty. | ||
B. Gửi đơn bày tỏ sự không đồng ý với quyết định phạt tiền của cảnh sát giao thông. | ||
C. Báo với bảo vệ trường học về người lấy trộm tài sản của trường. | ||
D. Báo với công an về một ổ đánh bạc. | ||
E. Báo với kiểm lâm về người chặt phá rừng. |
Công dân có thể thực hiện quyền tố cáo bằng cách nào?
(Chọn câu trả lời đúng)
A. Trực tiếp đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
B. Gửi đơn tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
C. Nhờ người khác tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
D. Gọi điện thoại tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
E. Nhắn tin qua điện thoại với người có thẩm quyền.
Chị Phương là nhân viên Công ty X. Một lần, do bị hỏng xe máy giữa đường nên chị đến cơ quan làm việc muộn hơn bình thường 2 tiếng. Trước đó, chị Phương đã gọi điện thoại báo cho Trưởng phòng, nhưng vì máy của chị hết pin giữa đường nên không liên lạc được. Giám đốc Công ty đã ra quyết định nghiêm khắc phê bình chị Phương. Chị Phương cho rằng quyết định của Giám đốc đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì thế, chị quyết định khiếu nại quyết định này của Giám đốc.
Câu hỏi:
Trong trường họp này, chị Phương làm đơn khiếu nại quyết định của Giám đốc công ty là đúng hay sai? Vì sao?
Ông K. là cán bộ thuế của huyện. Trong một lần bắt được một vụ buôn lậu hàng trốn thuế, ông đã nhận một số tiền có giá trị lớn và cho phép người buôn lậu mang hàng đi tiêu thụ. Ông T. chứng kiến việc này nhưng băn khoăn mãi: Liệu mình có thể tố cáo với cơ quan nào không?
Câu hỏi:
1/ Trong trường hợp này, ông T. có quyền tố cáo không?
2/ Nếu có, ông T. phải tố cáo đến cơ quan nào?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Trong các trường hợp công dân có quyền khiếu nại khi: Công dân đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét lại các quyết định, các việc làm của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật, quyết định kỉ luật, khi cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Mục đích của khiếu nại là để khôi phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị tổ chức hay cá nhân nào đó xâm hại.
1,Công dân có quyền sở hữu đối vs tài sản nào?Đối vs tài sản của người khác công dân có trách nhiệm j?Nêu vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân.
2,Khi đào móng làm nhà Ông A phát hiện 1 hũ tiền vàng cổ.Ông rất vui mừng và đi khoe vs bà con hàng xóm làng mình vừa đc sở hữu 1 tài sản khổng lồ có người nói rằng hũ vàng đó thuộc sở hữu của ông A , nhưng có người cho rằng hũ vàng đó là của nhà nước .Em đồng ý vs ý quan điểm của ai ? vì sao
Câu trả lời của bạn
Vai trò, trách nhiệm của Đảng
Với vai trò lãnh đạo, trước hết Đảng tạo lập các cơ sở chính trị, định hướng nội dung, mục tiêu cho toàn bộ hoạt động thể chế hoá. Điều đó có nghĩa những vấn đề về thể chế hoá trước hết được nhận thức và xác định thành các nguyên tắc chung, qua đó tạo thành cơ sở chính trị cho toàn bộ hoạt động thể chế hoá. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội bằng cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra giám sát việc thực hiện. Chẳng hạn Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, lực lượng và phương pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của nước ta trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những phương hướng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam4.
Trong số các văn kiện của Đảng, ngoài cương lĩnh chính trị thì các nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng có vai trò và ý nghĩa quan trọng hàng đầu cho hoạt động thể chế hoá. Đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, các nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương khoá X về những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng đã và đang được triển khai thực hiện có thể nêu như Nghị quyết số 48-TW/NQ về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam; Nghị quyết số 49-TW/NQ về chiến lược cải cách hệ thống tư pháp 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020 v.v..
Nhìn tổng thể, vai trò trách nhiệm của Đảng đối với quá trình xây dựng và thực thi hệ thống thể chế được xác định theo hai nội dung căn bản sau:
Thứ nhất, Đảng tạo lập cơ sở và đảm bảo định hướng chính trị cho hoạt động thể chế hoá. Điều này được quy định thành nguyên tắc Hiến pháp (Điều 4 Hiến pháp năm 1992). Hoạt động của Đảng trước hết là việc xác định đường lối phát triển của cách mạng Việt Nam, trong đó có đường lối xây dựng, củng cố và phát triển Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà hoạt động thể chế hoá là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Vai trò, trách nhiệm của Đảng là lãnh đạo việc thể chế hoá trước hết thông qua các quan điểm đường lối do Đảng vạch ra và được thể hiện tập trung trong các văn kiện của Đảng. Đảng phải xác định một cách đúng đắn, phù hợp, kịp thời toàn bộ con đường và bước đi của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ, hướng tới các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng chỉ rõ để tiến tới mục tiêu đó, Việt Nam phải xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân trên nền tảng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định chủ trương, đường lối làm cơ sở chính trị cho toàn bộ quá trình và nội dung thể chế hoá mà Đảng còn lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện quy trình thể chế hoá của Nhà nước nhằm tạo lập hệ thống các nguyên tắc, cơ chế, chính sách, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trách nhiệm của Đảng là theo dõi để kịp thời uốn nắn các hoạt động thể chế hoá đảm bảo tính định hướng chính trị của hoạt động này. Các cấp uỷ Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao hoạt động thể chế hoá, từ khâu hình thành chính sách, phân tích chính sách đến xác định nhu cầu lập pháp, lập quy, cho ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, lắng nghe nguyện vọng và ý kiến đóng góp, tham gia, phản biện của các tầng lớp nhân dân. Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam để đánh giá và cho ý kiến về các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước lập ra. Đảng không trực tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ thể chế hoá của Nhà nước nhưng những ý kiến chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Đảng thông qua các tổ chức đảng và đảng viên có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho hoạt động thể chế hoá đi đúng hướng. Tuy nhiên, để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình, đảng viên, các cấp uỷ Đảng ngoài năng lực tư duy và lãnh đạo chính trị, ngoài khả năng động viên, tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân còn phải có tri thức và trình độ chuyên môn nhất định. Kỹ năng và trình độ chuyên môn, những hiểu biết sâu sắc về các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội giúp cho đảng viên và các cấp uỷ Đảng có thể đưa ra được các ý kiến xác đáng, phù hợp với tính chất và yêu cầu cụ thể của mỗi lĩnh vực kinh tế - xã hội nói riêng và các quy luật khách quan của cuộc sống nói chung. Trong quy trình làm luật, pháp lệnh hiện nay trên thực tế, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đóng vai trò rất lớn trong khâu cho ý kiến đối với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cũng như nội dung các dự án luật, pháp lệnh. Tuy nhiên, vấn đề này cũng chưa được quy định cụ thể trong Hiến pháp và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trên thực tế, đối với hoạt động thể chế hoá, vai trò của các tổ chức Đảng rất quan trọng và rất lớn, đồng thời cũng không đơn thuần chỉ là việc Đảng đề ra các chủ trương, đường lối (trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng) rồi căn cứ vào đó Nhà nước thực hiện việc thể chế hoá như là sự tách biệt rành rẽ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, mà toàn bộ quá trình, định hướng và các nội dung lớn trong hoạt động thể chế hoá đều được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng (Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư…). Theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam hiện hành, Ban chấp hành trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai kỳ đại hội. Với vị trí quan trọng như vậy, Ban chấp hành trung ương Đảng giữ vai trò quyết định những vấn đề chiến lược và chủ trương, chính sách lớn về đối nội, đối ngoại nhằm cụ thể hoá và thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đại hội Đảng; Xác định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm, chủ trương đầu tư một số dự án đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… và cho ý kiến về một số đề án cụ thể, quan trọng khác thuộc các lĩnh vực ngoài các vấn đề đã ghi trong chương trình toàn khoá do Bộ Chính trị đề nghị; Xác định chủ trương và nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; Quyết định chủ trương về việc Việt Nam tham gia công ước, hiệp ước hoặc ký kết hiệp định song phương, đa phương đặc biệt quan trọng do Bộ Chính trị đề nghị; Quyết định về chủ trương thành lập, sáp nhập, chia tách các bộ, cơ quan ngang bộ, việc thành lập, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Quyết định giới thiệu nhân sự ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi các chức danh Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng do Ban Chấp hành trung ương bầu ra, có quyền quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp lớn nhằm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đại hội, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương gồm:
- Những vấn đề quan trọng thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội, Bộ chính trị có quyền:
+ Xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước hằng năm để trình Ban Chấp hành trung ương;
+ Cụ thể hoá về chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất và cơ chế quản lý;
+ Chiến lược và quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng;
+ Một số chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội cụ thể, một số dự án đầu tư quan trọng có tác động sâu rộng đến quyền lợi, tư tưởng của nhiều đối tượng xã hội, đến quốc phòng an ninh, đối ngoại, những vấn đề đòi hỏi sự phối hợp sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân;
+ Chiến lược tổng thể về vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ nước ngoài; việc sử dụng các nguồn lực quốc gia.
- Những vấn đề có tính chiến lược thuộc các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, khoa học, giáo dục, lãnh đạo và kết luận tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Định hướng về chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và hàng năm; về quan điểm và nội dung cơ bản của các dự án luật, một số dự án pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội liên quan đến thể chế chính trị, thể chế kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Định hướng hoạt động của các cơ quan tư pháp.
- Những chủ trương lớn về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, gồm:
+ Đánh giá, nhận định tình hình quốc tế, khu vực và quan hệ đối ngoại; xác định phương hướng, chính sách đối ngoại;
+ Chủ trương thiết lập quan hệ ngoại giao với một số nước; gia nhập và rút khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng và phương hướng hoạt động trong các tổ chức đó;
+ Những vấn đề quan trọng thuộc nội dung đàm phán, ký kết, tuyên bố của Việt Nam với nước ngoài;
+ Chủ trương đàm phán về biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia;
+ Chủ trương đăng cai và nội dung chủ yếu của việc Việt Nam tham gia các hội nghị quốc tế cấp nguyên thủ và Chính phủ;
+ Chương trình và nội dung quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ.
... “Trên thực tế, đối với hoạt động thể chế hoá, vai trò của các tổ chức Đảng rất quan trọng và rất lớn, đồng thời cũng không đơn thuần chỉ là việc Đảng đề ra các chủ trương, đường lối (trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng) rồi căn cứ vào đó Nhà nước thực hiện việc thể chế hoá như là sự tách biệt rành rẽ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, mà toàn bộ quá trình, định hướng và các nội dung lớn trong hoạt động thể chế hoá đều được sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng”...
3. Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước
Ở Việt Nam, trong mối quan hệ với Đảng, vai trò của Nhà nước được nhận thức một cách khái quát là Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo5. Nhà nước quản lý, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng tham gia quản lý… nói cách khác, đó cũng là cơ chế thực hiện dân chủ ở Việt Nam. Tuy vậy, đến nay vấn đề vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá cụ thể như thế nào xét trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và trong nội bộ Nhà nước cũng chưa được làm rõ và hoàn toàn thống nhất về mặt học thuật. Hơn nữa, dường như chúng ta cũng mới chỉ định hình được nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của các tổ chức đảng và đảng viên... Rõ ràng, đây là những điểm còn thiếu hụt trong cơ chế hiện hành về hoạt động thể chế hoá cần phải nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
... “Nhà nước phải đưa ra được hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp minh bạch, nhất quán và phù hợp với những chủ trương, định hướng chính trị của Đảng. Nghĩa là hệ thống thể chế nhà nước phải vừa đáp ứng được các yêu cầu, những đòi hỏi khách quan quản lý nhà nước, đồng thời đảm bảo được tính định hướng chính trị, mục tiêu của cách mạng Việt Nam do Đảng đề ra”...
Đối với Nhà nước nói chung, trên thực tế thể chế hoá là loại hoạt động vô cùng phức tạp với nhiều nội dung rất phong phú, liên quan đến nhiều chủ thể tham gia và tuân theo quy trình gồm nhiều giai đoạn, công đoạn khác nhau, trong đó vai trò, trách nhiệm của mỗi cấp, ngành, mỗi cơ quan cũng được quy định cụ thể. Theo cơ chế hiện hành, quy trình thể chế hoá xác định vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước và vai trò của người dân, các tổ chức, đoàn thể xã hội. Quy trình này cũng đã được mô hình hoá để giúp cho việc nhận thức và thực thi một cách đúng đắn hơn6. Cần chú ý vai trò quản lý của Nhà nước ở đây được hiểu theo nghĩa rộng của từ này, trong đó bao hàm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm thể chế hoá (chính thức hoá về mặt nhà nước) để xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác, như trên đã phân tích hoạt động thể chế hoá của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước không đơn thuần là việc cụ thể hoá, chi tiết hoá nội dung các văn kiện của Đảng. Nhà nước phải đưa ra được hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp minh bạch, nhất quán và phù hợp với những chủ trương, định hướng chính trị của Đảng. Nghĩa là hệ thống thể chế nhà nước phải vừa đáp ứng được các yêu cầu, những đòi hỏi khách quan quản lý nhà nước, đồng thời đảm bảo được tính định hướng chính trị, mục tiêu của cách mạng Việt Nam do Đảng đề ra.
Cơ chế thể chế hoá một mặt thể hiện mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, trách nhiệm của Đảng trong quy trình thể chế hoá, mặt khác thể hiện vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước đối với hệ thống thể chế của Nhà nước đáp ứng các nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Về cơ chế, sự phân công vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trong quá trình thực hiện thể chế hoá phần lớn đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong quy trình thể chế hoá, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước hết phải nghiên cứu sâu sắc các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tiếp đó phải chuyển hoá những ý tưởng chính trị đó thành nội dung các quy định, thể lệ, mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động cụ thể của Nhà nước được đảm bảo thực thi bằng sức mạnh, tiềm lực của Nhà nước. Như vậy, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, trên con đường trở lại với thực tiễn, đường lối, chính sách của Đảng được “hoá thân” vào hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước và toàn bộ hệ thống thể chế nhà nước mang được “linh hồn” của chính trị (đường lối, chính sách của Đảng). Đó là phương thức cơ bản vừa để chính thức hoá vai trò của Đảng với tư cách là đảng cầm quyền vừa để đảm bảo tính chính trị (bản chất) trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để nâng cao vai trò, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá đòi hỏi cùng đồng thời phải nâng cao năng lực của cả Đảng và Nhà nước, sao cho Đảng không bị “Nhà nước hoá” còn Nhà nước thì không bị thụ động, mất khả năng tích cực, sáng tạo, nhạy bén để có thể đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của đời sống kinh tế - xã hội7. Đây có thể nói là một trong những thách thức lớn nhất của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
...“Thiết nghĩ ý tưởng nhất thể hoá các chức vụ lãnh đạo Đảng với lãnh đạo Nhà nước hiện nay là ý tưởng cần được quan tâm xem xét một cách nghiêm túc”...
Trong cơ chế thể chế hoá, một mặt Nhà nước nhận thức được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc nắm bắt nhu cầu về thể chế trong quá trình thực hiện vai trò quản lý xã hội, mặt khác, thông qua việc nghiên cứu thấu suốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, thông qua hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Nhà nước không nên chỉ thiên về một mặt nào trong đó, cái chính phải là Nhà nước chủ động, tích cực thu nhận các nhu cầu về thể chế từ thực tế khách quan trong quá trình quản lý xã hội của mình, kết hợp với việc quán triệt đường lối, chính sách của Đảng. Cơ chế như vậy cho phép khắc phục tính thụ động của các cơ quan nhà nước, khắc phục được tính chủ quan, duy ý chí trong các chính sách của Nhà nước. Một thực trạng trong quy trình thể chế hoá hiện nay cần phải đổi mới, đó là Nhà nước thì đợi ý kiến của Đảng, cơ quan nhà nước cấp dưới thì đợi cơ quan nhà nước cấp trên, ngược lại thậm chí luật chờ chỉ thị, thông tư mới có thể đưa vào áp dụng… trong khi các quan hệ xã hội đang hàng ngày đòi hỏi được điều chỉnh, trật tự hoá. Muốn nâng cao năng lực thể chế hoá và quản lý nói chung của Nhà nước, cần tạo cơ chế độc lập cho Nhà nước trong hoạt động thể chế hoá nói riêng và cả hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Mặt khác, cũng cần nâng cao năng lực và hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đảm bảo tính trách nhiệm cụ thể và tính thực chất trong hoạt động của các tổ chức đảng và cán bộ Đảng. Thiết nghĩ ý tưởng nhất thể hoá các chức vụ lãnh đạo Đảng với lãnh đạo Nhà nước hiện nay là ý tưởng cần được quan tâm xem xét một cách nghiêm túc. Về mặt tổ chức kỹ thuật, hiện có một số khái niệm, nội dung quy trình và sản phẩm thể chế hoá ở Việt Nam khác với các nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới. Nhất thể hoá vai trò, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong hoạt động hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng - Nhà nước, từ đó tiếp tục thể chế hoá thành luật pháp là phương thức cần được nghiên cứu sâu sắc hơn để có thể áp dụng ở Việt Nam. Khi đó, khái niệm thể chế hoá sẽ là thể chế hoá chính sách của Nhà nước (cũng là của Đảng với tư cách là đảng cầm quyền) thành luật pháp của Nhà nước.
Câu trả lời của bạn
cả 4 nha
cả 4 cái
Cả 4 đáp án
cả 4 cái
Câu trả lời của bạn
A,D,C,E
Có ý kiến cho rằng “ Tự do ngôn luận là muốn nói gì thì nói”.
Em có đồng tán thành không? Vì sao? Nêu 2 việc làm của bản thân em thể hiện quyền tự do ngôn luận?
Câu trả lời của bạn
Em không đồng ý vì tự do ngôn luận thì vẫn phải tuân thủ theo một số quy định pháp luật nên không thể nói năng bừa bãi, tuyên truyền phản động, xúc phạm nhân phẩm...
2 vc lm :
- phát biểu xây dựng bài
- thảo luận nhóm, nêu ý kiến của mình
Câu trả lời của bạn
Trách nhiệm của Công Dân: trung thực, khách quan, thanh trọng
Trách nhiệm của Nhà nước : Nhà nước nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố các để vu oan, vu khống làm hại người khác.
Chúc bn thành công!
Công dân khi thực hiện quyền khiếu nại quyền tố cáo cần trung thực và khách quan, thận trọng.
Câu hỏi tình huống: em H là học sinh lớp 8, đc bt em có mâu thuẫn với em Trần Văn Đ. anh của Trần Văn Đ đã kêu anh mình lên giải quyết. Sáng hôm đó hai người đã đợi trước cổng trường, người anh của Trần Văn Đ đã đánh và bắt em H quỳ xuống xin lỗi nhưng ko may lại có bạn nữ sinh cùng khối quay lại và đăng lên face. Vài ngày sau em đã thắt cổ tự tử tại nhà riêng. Gia đình em đã nộp đơn khổi tố.
a) ai sẽ là người bị khởi tố hình sự? vì sao?
b) qua tình huống trên em rút ra điều j về cách ứng xử và ngày và đăng bài lên face
Giúp mình với :)) ;)) "/
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Theo quy định tại Điều 33 Luật Khiếu nại, tố cáo thì người khiếu nại có thể khiếu nại bằng một trong ba hình thức: Khiếu nại bằng đơn, khiếu nại trực tiếp hoặc khiếu nại thông qua người đại diện.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1.Quyền khiếu nại: là quyền của công dân đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định, việc làm của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công vụ.
2.Quyền tố cáo: là quyền của công dân báo cho cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền biết về một việc vi phạm pháp luật.
3. So sánh khiếu nại và tố cáo
*Giống nhau:
* Khác nhau:
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
3 ví dụ về quyền khiếu nại cáo :
- Nếu thầy cộng điểm bài kiểm tra sai thì mình có quyền khiếu nại bằng cách đưa bài kiểm tra cho thầy và nhờ thầy xem lại còn nếu không dám đưa trực tiếp cho thầy thì có thể nhờ cô/thầy giáo chủ nhiệm đưa cho.
- Giám đóc đuổi việc mà không có lí do thì chúng ta có quyền khiếu nại.
- Gửi đơn kiện ra tòa đòi quyền thừa kế cho mình .
3 ví dụ về quyền tố cáo :
- Tố cáo một người nào đó có hành vi giết người .
- Tố cáo một nơi hay địa điểm nào đó mà mình chắc chắn ở đó là nơi buôn bán, tiêm chích ma túy.
- Tố cáo những cán bộ tham nhũng.
VD về quyền khiếu nại
-Khi mình ko đồng ý với quyết định xử phạt của cảnh sát giao thông
VD về quyền tố cáo
-Phát hiện thấy người buôn bán ma tuý
-Thấy người trộm cắp đồ của người khác
-Thấy người buôn bán người trái phép
Bà Hòa thuê băng thiếu nhi của Nhà nước Việt Nam nhưng khi mở lên thì thấy chứa nội dung không lành mạnh ( hình ảnh nhạy cảm, nội dung 18+...) không phù hợp với thiếu nhi
a. Theo em bà Hòa có thể kiến nghị hay tố cáo? Vì sao?
b. Chủ tiệm đĩa bồi thường bà Hòa hai chiếc xe đĩa mới và nói với bà Hòa rằng:"Hãy giữ kín, đừng làm to chuyện". Theo em thỏa thuận như thế đã đủ thuyết phục chưa? Vì sao?
Câu trả lời của bạn
bà Hòa có thể tố cáo, vì trong đĩa ghi là cho thiếu nhi nhưng có nội dung nhạy cảm và không phù hợp, nếu lỡ bà Hòa không phát hiện, cháu hay con của bà có thể bị sang chấn tâm lí và có suy nghĩ sai lệch về giới tính từ nhỏ.
a, tố cáo vì hành động trên có hảnh hưởng xấu đến thiếu nhi
b, chưa được vì việc trên ảnh hưởng đến cả cảm xúc , tinh thần của thiếu nhi và việc đó chưa dc bù đắp
Chào cậu mình là thành viên team@1qqz, hôm nay mình xin trả lời câu hỏi của cậu!
- Theo em, bà Hòa có thể tố cáo, vì trong đĩa ghi là cho thiếu nhi nhưng có nội dung nhạy cảm và không phù hợp, nếu lỡ bà Hòa không phát hiện, cháu hay con của bà có thể bị sang chấn tâm lí và có suy nghĩ sai lệch về giới tính từ nhỏ.
- Theo em như vậy vẫn chưa thuyết phục, vì nếu có 1 đĩa sẽ có thêm nhiều đĩa, bán ra thi trường chắc chắn rất nhiều, có thể nhiều trẻ đã xem và sang chấn tâm lý, có suy nghĩ khá hay sai lệch về giới tính, không trong sáng như lứa tuổi của mình.
Cảm ơn cậu đã đọc câu trả lời này của mình, chúc bạn học tốt, fighting blink blink
a, có.vì nó cs hành vi đầu độc trẻ em bỡi những hình ảnh ko đáng xem
b,chưa thuyết phục .vì:ông chủ chx tiêu hủy hết đống đĩa đã bán ra, nếu ỡ đk trên thì ông chủ chỉ nhận lỗi với bà hòa chứ ko phải xã hội
a, kiến nghị. Vì vi phạm đạo đức xã hội và quy định của pháp luật.
b, chưa. Vì nó có thể ảnh hưởng đến con cái nếu nó xem rồi
các câu trả lời trên đúng rồi
tố cáo nhé bạn
do bà làm thế thì thiếu nhi sẽ làm theo ảnh làm theo và sẽ bị ảnh hưởng lúc nhỏ .thế nên phải tố cáo nhiện tình
TỐ cáo
a.Tố cáo. Vì người bán đã nói dối, lừa lọc bà H và những nội dung trong chiếc đĩa đã gây tổn hại đến lợi ích cả nhân về mặt tinh thần của bà H
b. Chưa, vì + hành vi trên đã gây tổn hại đến.....(đã đề cập ở a)
+ bồi thường về mặt vật chất chứ ko bồi thường đc tinh thần.....
#Học tốt
a,theo bà hoa có thể tố cáo.vì trong băng có nội dung ko phù hợp vs thiếu nhi có thể ảnh hưởng xấu đến tinh thần của trẻ nhỏ
b,theo em nó chưa đủ thuyết phục .vì bà ko thể tin tưỡng ông đc lỡ như vẫn còn nhiều đĩa
Câu trả lời của bạn
T là học sinh chậm tiến, thường xuyên giao du với bọn xấu và bị chúng lôi kéo vào con đường hút chích. Có lần chúng bắt T phải lấy trộm tiền của các bạn cùng lớp để nộp cho chúng. Là bạn học cùng lớp với T, em sẽ làm gì để giúp đỡ bạn?
Câu trả lời của bạn
Em sẽ khuyên bạn không nên làm vậy nữa
Khi nào thì công dân có quyền tố cáo, mục đích của việc tố cáo?
Câu trả lời của bạn
Theo em, khi nào thì công dân có quyền khiếu nại, mục đích của việc khiếu nại ?
Khi nào thì công dân có quyền khiếu nại, mục đích của việc khiếu nại?
Câu trả lời của bạn
Mục đích của khiếu nại là để khôi phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị tổ chức hay cá nhân nào đó xâm hại.
Thế nào là quyền khiếu nại, tố cáo của công dân?
Câu trả lời của bạn
Quyền khiếu nại: là quyền của công dân đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định, việc làm của cán bộ công chức nhà nước khi thực hiện công vụ.
Quyền tố cáo là quyền của công dân báo cho cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền biết về một việc vi phạm pháp luật.
Hãy nêu nhận xét của em vê Điều 30 Hiến pháp và Điều 132 Bộ luật Hình sự?
Câu trả lời của bạn
Điều 132 Luật Hình sự năm 1999 nói về việc người nào xâm phạm đến quyền khiếu nại, tố cáo, trả thù người khiếu nại, tố cáo bị Nhà nước xử lý theo pháp luật.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/tra-loi-goi-y-bai-21-trang-58-sgk-gdcd-lop-8-c147a23708.html#ixzz6GCOETLqY
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *