Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp âm mưu đặt ách thống trị lên đất nước ta. Nhân dân ta phải đứng lên chống ách xâm lược. Bên cạnh các cuuộc đấu tranh chống Pháp trên chiến trường, lòng yêu nước của nhân dân ta còn được thể hiện bằng nhiều hành động khác nhau, trong đó có việc đề xuất các đề nghị cải cách mà chúng ta tìm hiểu trong bài hôm nay: Bài 28: Trào lưu cải cách Duy tân ở Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX
Sau khi học xong bài này các em cần nắm được nội dung sau:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 8 Bài 28 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam những năm 60 của thế kỉ XIX như thế nào?
Cuộc khởi nghĩa của Cai Tổng Vàng - Nguyễn thịnh diễn ra ở đâu?
Câu 3-5: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 8 Bài 28để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận 1 trang 134 SGK Lịch sử 8 Bài 28
Bài tập Thảo luận 2 trang 134 SGK Lịch sử 8 Bài 28
Bài tập Thảo luận 1 trang 135 SGK Lịch sử 8 Bài 28
Bài tập Thảo luận 2 trang 135 SGK Lịch sử 8 Bài 28
Bài tập Thảo luận trang 136 SGK Lịch sử 8 Bài 28
Bài tập 1 trang 136 SGK Lịch sử 8
Bài tập 2 trang 136 SGK Lịch sử 8
Bài tập 1.1 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.2 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.3 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.4 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.5 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.6 trang 95 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 2 trang 96 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 3 trang 96 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 4 trang 96 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 5 trang 97 SBT Lịch Sử 8
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 8 DapAnHay
Tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam những năm 60 của thế kỉ XIX như thế nào?
Cuộc khởi nghĩa của Cai Tổng Vàng - Nguyễn thịnh diễn ra ở đâu?
Trước tình hình khó khăn của đất nước những năm cuối thế kỉ XIX, yêu cầu đặt ra đó là?
Từ năm 1863 đến 1871, Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình bao nhiêu bản điều trần?
Năm 1877 và 1882 Ngyễn Lộ Trach dâng vua Tự Đức 2 bản "Thời vụ sách" đề nghị cải cách vấn đề gì?
Nêu những nhận xét chính về tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XIX.
Nguyên nhân nào dẫn đến những cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều đình phong kiến trong nửa cuối thế kỉ XIX?
Vì sao các quan lại, sĩ phu đưa ra những đề nghị cải cách?
Kể tên những sĩ phu tiêu biểu trong phong trào cải cách ở nửa cuối thế kỉ XIX. Nêu những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
Trình bày những hạn chế của các đề nghị cải cách cuối thế kỉ XIX.
Kể tên những sĩ phu tiêu biểu trong phong trào cải cách ở nửa cuối thế kỉ XIX. Nêu những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ.
Vì sao các đề nghị cải cách ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX không thực hiện được.
Nét nổi bật của tình hình nước ta nửa cuối thế kỉ XIX là :
A. Triều đình Huế thực hiện chính sách nội trị, ngoại giao lỗi thời, lạc hậu
B. bộ máy chính quyền mục rỗng, nông nghiệp, công thương đình trệ ; tài chính cạn kiệt.
C. đời sống nhân dân vô cùng khó khăn
D. mâu thuân giai cấp và mâu thuẫn dân tộc gay gắt hơn bao giờ hết.
Ý nào sau đây không phải là nguyên nhân khiến một số quan lại, sĩ phu đưa ra các đề nghị cải cách
A. họ có lòng yêu nước, thương dân
B. họ mong muốn nước nhà giàu mạnh, có thể đương đầu với cuộc tấn công của kẻ thù
C. họ không có vị trí xứng đáng trong triều đình
D. tình hình đất nước ngày một nguy khốn
Năm 1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế đã xin với triều đình
A. chấn chỉnh bộ máy quan lại
B. cải tổ giáo dục
C. mở cửa biển Trà Lí
D. mở cửa biển Vân Đồn
Số lượng bản điều trần mà Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình năm 1863 đến năm 1871 là
A. 20 bản
B. 25 bản
C. 30 bản
D. 35 bản
Người dâng hai bản Thời vụ sách lên vua Tự Đức vào các năm 1877 và 1822 là
A. Đinh Văn Điền
B. Nguyễn Lộ Trạch
C. Nguyễn Trường Tộ
D. Phạm Phú Thứ
Hạn chế cơ bản nhất của các đề nghĩ cải cách cuối thế kỉ XIX là
A. Mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc
B. Chưa xuất pháp từ cơ sở bên trong.
C. Chưa giải quyết được vấn đề cơ bản là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
D. Vì nhiều nội dung cải cách rập khuôn hoặc mô phỏng của nước ngoài khi mà điều kiện nước ta có khác biểt
Nối nội dung cột I với nội dung ở cột II cho phù hợp
Cột I:
1. Viện Thương bạc
2. Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế
3. Đinh Văn Điền
4. Nguyễn Trường Tộ
5. Nguyễn Lộ Trạch
Cột II
A, đề nghị trấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
B, đề nghị đẩy mạnh việc khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
C, đề nghị mở ba cửa biển ở Miền Bắc và miền Trung để thông đường.
D, Đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công, thương nghiệp tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tôt giáo dục.
E, đề nghị mở cửa biển Trà Lí (Nam Định)
Nêu hoàn cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX
Vì sao các quan lại, sĩ phu đưa ra những đề nghị cải cách? Nên nội dung chính của những đề nghị cải cách?
Vì sao những đề nghị cải cách ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX không được thực hiện ?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Tại sao nói cuộc Duy Tân ,Minh Trị năm 1868 lại là cuộc cách mạng tư sản
Câu trả lời của bạn
- Mục đích: lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
- Lực lượng lãnh đạo: giai cấp tư sản.
- Động lực cách mạng: đông đảo quần chúng nhân dân.
- Kết quả, ý nghĩa: nền thống trị của giai cấp tư sản được thiết lập, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ.
Cuộc Duy Tân Minh Trị tuy không lật đổ hoàn toàn sự thống trị của giai cấp phong kiến, nhưng đã xóa bỏ những tàn dư của giai cấp phong kiến, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
Sau cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật Bản từ một nước phong kiến đi lên phát triển theo con đường TBCN.
⟹ Như vậy, Cuộc Duy Tân Minh Trị có ý nghĩa như một cuộc Cách mạng tư sản.
Bởi cuộc cải cách Minh Trị (Mâygi) đã làm được những điều sau:
- Về kinh tế: xoá bỏ sự độc quyền về ruộng đất của giai cấp phong kiến, thống nhất tiền tệ, phát triển kinh tế TBCN ở nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, liên lạc
- Về chính trị: Chính phủ được tổ chức lại theo kiểu châu Âu gồm 12 bộ, Toà án mới cũng được thành lập theo kiểu tư sản
Tóm lại là cuộc cải cách Minh Trị đã đưa Nhật Bản phát triển theo mô hình của các nước tư bản, tuy nhiên nó không do giai cấp tư sản lãnh đạo, không triệt để xoá bỏ sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nên có thể gọi đây là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để.
Phân tích giá trị của các đề nghị cải cách nước ta nửa cuối thế kỉ XIX?(liên hệ với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta hiện nay?)
Câu trả lời của bạn
Trong bối cảnh bế tắc của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XIX, một số sĩ phu, quan lại đã vượt qua những luật lệ hà khắc, sự nghi kị, ghen ghét, thậm chí nguy hiểm đến cả tính mạng của mình để đưa ra những đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước. Các đề nghị cải cách này đều nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu của nước ta lúc đó.
Tuy nhiên, các đề nghị cải cách nói trên vẫn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa động chạm tới những vấn đề cơ bản của thời đại : giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Triều đình phong kiến Nguyễn bảo thủ, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh, nên đã không chấp nhận những thay đổi và từ chối mọi sự cải cách, kể cả những cải cách hoàn toàn có khả năng thực hiện. Điều này đã làm cản trở sự phát triển của những tiền đề mới, khiến xã hội vẫn chỉ luẩn quẩn trong vòng bế tắc của chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Dù không thành hiện thực, song những tư tưởng cải cách cuối thế kỉ XIX đã gây được tiếng vang lớn. ít nhất cũng đã dám tấn công vào những tư tưởng bảo thủ và phản ánh trình độ nhận thức mới của những người Việt Nam hiểu biết, thức thời.
Tư tưởng cải cách cuối thế kỉ XIX đã góp phần vào việc chuẩn bị cho sự ra đời phong trào Duy tân ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX.
tại sao cải cách Duy Tân Minh Trị thành công trong khi đó việt nam thất bại
Câu trả lời của bạn
Cải cách Duy tân không đáp ứng được nhu cầu bấy giờ là mâu thuẫn giữa TD Pháp và nhân dân VN, giữa nông dân và địa chủ, chưa thu hút được đông đảo nhân dân ủng hộ; nhà Nguyễn bảo thủ,bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh nên từ chối.
Còn duy tân Minh Trị thì là do thiên hoàng tiến hành, phù hợp với tình hình bấy giờ nên được ủng hộ và thành công
Em hãy đóng vai 1 ng VN yêu nc sống cuối thế kỷ XIX .Gửi 1 bản đề xuất canh tân đất nc và thuyết phục các vua nhà Nguyễn thực hiện đổi mới .
Help me! mk cần gấp lắm!
Câu trả lời của bạn
nếu e là 1 ng vn y nc thì e sẽ thuyết phục vua là:
-cho xây dựng lại bộ mấy chính quyền:đặt lại các chức quan ăn nhiều bổng lộc
-cải cách ruộng đất:quy định lại số ruộng đất của quý tộc chia cho dân cày
-đắp đê,cải cách đê điều
-mở rộng việc hk tập :k chỉ hk ở các phủ cho con vua quan mà mở rộng ở các nông thôn
Tóm tắt khởi nghĩa Hương Khuê
Câu trả lời của bạn
* Lãnh đạo: Phan Đình Phùng và Cao Thắng.
*Căn cứ: Ngàn Trươi ( xã Vụ Quang, Huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh).
* Hoạt động trên địa bàn rộng gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
* Diễn biến: Hai giai đoạn
_ Từ năm 1885-1888: nghĩa quân lo tổ chức, huấn luyện, xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí và tích trữ lương thảo.
_ Từ năm 1888 đến 1895: là thời kì chiến đấu của nghĩa quân . Dựa vào vùng rừng núi hiểm trở, có sự chỉ huy thống nhất, nghĩa quân đã đẩy lui nhiều cuộc hành quân và càn quét của giặc.
+ Để đối phó Pháp tập trung binh lực và xây dựng 1 hệ thống đồn, bốt nhằm bao vây , cô lập nghĩa quân. Đồng thời chúng mở nhiều cuộc tấ công quy mô vào Ngàn Trươi.
+ Nghĩa quân phải chiến đấu trong điều kiện ngày càng gian khổ hơn, lực lượng suy yếu dần.
+ Sau khi chủ tướng Phan Đình Phùng hi sinh, cuộc khởi nghĩa được duy trì thêm một thời gian dài rồi tan rã.
* Kết quả:Cuộc khởi nghĩa thất bại.
TRÌNH BÀY THEO KIỂU 1 BÀI VĂN NHÁ!!!!
1. các trào lưu cải cách duy tân ra đời trong hoàn cảnh nào? vid sao những cải cách đó không thực hiện được?
Câu trả lời của bạn
Ra đời trong hoàn cảnh : đứng trước đất nước ngày càng nguy nan và suất phát từ lòng yêu nước, thương dân, muốn cho nước nhà giàu mạnh, có thể đương đầu với cuộc tấn công ngày càng dồn dập của kẻ thù, một số quan lại, sĩ phu thức thời đã mạnh dạng đưa ra những đề nghị, đòi thay đổi chính sách về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của triều đình huế.
Không thực hiện được là vì : triều đình nhà nguyễn bảo thủ, không muốn thay đổi hiện trạng của đất nước, tuy bất lực trước những khó khăn của đất nước nhưng họ vẫn từ chối mọi cải cách, kể cả những cải cách hoàn toàn có khả năng thực hiện được, gây trở ngại cho việc phát triển những nhân tố mới của xã hội. Vì vậy, làm cho đất nước luẩn quẩn trong vòng lạc hậu, bế tắc của chế độ phong kiến đương tjoiwf.
Chúc bn học tốt nhé
nội dung và ý nghĩa của cải cách minh trị
Câu trả lời của bạn
Nội dung cải cách Minh Trị:
Tính chất – ý nghĩa:
uộc Duy tân Minh Trị có ý nghĩa như một cuộc cách mạng tư sản :
- Làm sáng tỏ khái niệm về cuộc cách mạng tư sản.
+ Mục đích : lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản được tự do phát triển.
+ Lực lượng lãnh đạo : giai cấp tư sản.
+ Động lực cách mạng : đông đảo quần chúng nhân dân.
+ Kết quả, ý nghĩa : nền thống trị của giai cấp tư sản được thiết lập, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ.
tóm tắt kháng chiến bắc kì lần thứ 1
Câu trả lời của bạn
Từ năm 1867, sau khi cả sáu tỉnh Nam Kì rơi vào tay Pháp, tư tưởng đầu hàng đã chi phối các quan lại cao cấp trong triều đình Huế. Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục chính sách “bế quan tỏa cảng”, tuy đã bắt đầu cử người sang phương Tây học kĩ thuật hoặc vào Nam học tiếng Pháp.
Đối với sáu tỉnh Nam Kì, dường như triều đình Huế đã mặc nhiên thừa nhận đó là vùng đất của Pháp, không nghĩ gì đến việc giành lại.
Nền kinh tế của đất nước ngày càng bị kiệt quệ vì triều đình vơ vét tiền bạc để trả chiến phí cho Pháp.
Đời sống ngày một khó khăn, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, nhân dân bất bình đứng lên chống triều đình ngày một nhiều. Dọc theo biên giới hai nước Việt-Lào, đồng bào Mường ngoài Bắc và đồng bào Thượng ở Nam Trung Kì nổi dậy. Lợi dụng tình thế đó, bọn thổ phỉ, hải phỉ (từ Trung Quốc tràn sang) cũng nổi lên cướp phá ở nhiều nơi. Để đối phó, nhà Nguyễn đã đàn áp đẫm máu các cuộc khởi nghĩa nông dân, đồng thời cầu cứu nhà Thanh phái quân sang đánh dẹp các toán phỉ. Trong khi đó, ở Nam Kì thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho việc thôn tính cả nước ta.
Đứng trước vận nước nguy nan, một số quan chức, sĩ phu có học vấn cao, có dịp đi nước ngoài, tầm mắt rộng mở như : Nguyễn Hiệp, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đinh Văn Điền….và nhất là Nguyễn Trường Tộ, đã mạnh dạn dâng lên triều đình những bản điều trần, bày tỏ ý kiến cải cách duy tân. Nhưng phần lớn các đề nghị cải cách đã không được thực hiện.
2.Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873)
Sau khi chiếm được các tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước.Chúng phái gián điệp ra Bắc , điều tra tình hình bố phòng của ta, bắt ta liên lạc với Giăng Đuy-puy, một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc-Việt Nam. Ngoài ra, Pháp còn lôi kéo một số tín đồ Công giáo lầm lạc, kích động họ nổi lên chống triều đình, hình thành đạo quân nội ứng cho cuộc xâm lược sắp đến.
Tháng 11-1872, ỷ thế nhà Thanh, Đuy-puy tự tiện cho tàu theo sông Hồng lên Vân Nam buôn bán, dù chưa được phép của triều đình Huế. Hắn còn ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, có nhượng địa ở Hà Nội, được cấp than đá để đưa sang Vân Nam. Lính Pháp và thổ phỉ dưới trướng ĐUy-puy còn cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan, lính và dân ta đem xuống tàu; khước từ lời mời tới thương thuyết của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương. Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ giải quyết “vụ Đuy-puy” đang gây rối ở Hà Nội, thực dân Pháp ở Sài Gòn phái Đại úy Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc.
Ngày 5-11-1873, đội tàu chiến của Gác-ni-ê đến Hà Nội. Sau khi đội quân với Đuy-puy, quân Pháp liền giở trò khiêu khích.
Ngày 16-11-1873, sau khi có thêm viện binh, Gác-ni-ê liền tuyên bố mở cửa sông Hồng, áp dụng biểu thuế quan mới. Sáng 19-11, hắn gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu giải tán quân đội, nộp khí giới…Không đợi trả lời, mờ sáng 20-11-1873, quân Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội. Những ngày sau đó, chúng đưa quân đi chiếm các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc Kì: Hưng Yên (23-11), Phủ Lí (26-11), Hải Dương (3-12), Ninh Bình (5-12) và Nam Định (12-12).
3.Phong trào kháng chiến ở Bắc Kì trong những năm 1873-1874
Hành động xâm lược của quân Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẫn.
Ngay khi Gác-ni-ê đến Hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độ. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.
Khi nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh tới người cuối cùng tại cửa Ô Thành Hà (sau được đổi tên là Ô Quan Chưởng). Trong thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt. ông đã khước từ sự chữa chạy của Pháp, nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu.
Hình 54. Cửa Ô Quan Chưởng (Hà Nội)
Thành Hà Nội bị giặc chiếm, quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu, văn thân yêu nước đã lập Nghĩa hội, bí mật tổ chức chống Pháp. Tại các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định…., quân Pháp cũng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân ta.
Trận đánh gây được tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân ta tại Cầu Giấy ngày 21-12-1873.
Hình 55. Nguyễn Tri Phương (1800-1873)
Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh Nam Định, việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phối hợp với đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn Tây kéo về Hà Nội, hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của quân ta tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có cả Gác-ni-ê đã bị tiêu diệt.
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi; ngược lại, làm cho thực dân Pháp hoang mang, lo sợ và tìm cách thương lượng. Triều đình Huế lại kí kết Hiệp ước năm 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất), theo đó quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở để thực hiện các bước xâm lược về sau.
Hiệp ước năm 1874 gồm 22 khoản. Với Hiệp ước này, triều đình nhà Nguyễn chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì là đất thuộc Pháp, công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam của chúng….
Hiệp ước 1874 gây bất bình lớn trong nhân dân và sĩ phu yêu nước. Phong trào đấu tranh phản đối Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy ở Nghệ An, Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển lãnh đạo.
12/kể tên những sĩ phu tiêu biểu trong phong trào cải cách ở nửa cuối thế kỉ 19. nêu những nội dung chính trong các đề nghị cải cách của họ
Câu trả lời của bạn
- Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định).
- Đinh Vãn Điền (1868) xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
- Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục.Ế.
- Nguyễn Lộ Trạch (1877. 1882) : đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
11/ vì sao các quan lại , sĩ phu đưa ra những đề nghị cải cách?
Câu trả lời của bạn
2/ Vì trước tình trạng đất nước ngày càng nguy khốn, đồng thời xuất phát từ lòng yêu nước v,thương dân,muốn cho nước nhà giàu mạnh, có thể đương đầu với các cuộc tấn công của kẻ thù,một số quan lại, sĩ phu đã đưa ra đề nghị cải cách.
Đất nước ngày càng nguy nan, xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, muốn cho nước nhà giàu mạnh, có thể vững vàng để đương đầu với cuộc tấn công ngày càng dồn dập của kẻ thù, một số quan lại, sĩ phu yêu nước đã mạnh dạn đưa ra những đề nghị cải cách, thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của triều đình Huế.
Các quan lại, sĩ phu đưa ra các đề nghị cải cách vì:
- Đất nước đang trong tình trạng nguy khốn (Pháp mở rộng xâm lược; triều đình bảo thủ, lạc hậu: kinh tế kiệt quệ ; mâu thuẫn xã hội gay gắt...).
- Xuất phát từ lòng yêu nước.
- Các sĩ phu là những người thông thái, đi nhiều, biết nhiều, đã từng được chứng kiến sự phồn thịnh của tư bản Âu - Mĩ và thành tựu của nền văn hoá phương Tây.
Các quan lại, sĩ phu đưa ra các đề nghị cải cách vì:
- Đất nước đang trong tình trạng nguy khốn (Pháp mở rộng xâm lược; triều đình bảo thủ, lạc hậu: kinh tế kiệt quệ ; mâu thuẫn xã hội gay gắt...).
- Xuất phát từ lòng yêu nước.
- Các sĩ phu là những người thông thái, đi nhiều, biết nhiều, đã từng được chứng kiến sự phồn thịnh của tư bản Âu - Mĩ và thành tựu của nền văn hoá phương Tây.
10/ nguyên nhân nào dẫn đến những cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều đình phong kiến trong nửa cuối thế kỉ 19
Câu trả lời của bạn
ngay từ đầu thực dân pháp nổ súng xâm lược nước ta triều đình họ nguyễn bảo vệ lợi ích của dòng họ nên đã không cùng nhân dân chống lên xâm lược vẫn tiếp tục sư dung chính sách tăng cường bóc lột nhân dân để thỏa mãn sự xa hoa lãng phí chốn cung đình làm kinh tế trì trệ
dưới nạn ngoại xâm của thực dân pháp và sự cai trị của nhà nguyễn nhân dân điêu đứng mùa màng thất thoát , trộm cắp nổi lên khắp nơi . vì vậy bộ phận nhân dân đắc biệt là nhân dân không chịu được nỗi thống khổ đã đứng lên khởi nghĩa chống triều đình phong kiến
9/ nêu những nét chính về tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam giữa thế kỉ 19
Câu trả lời của bạn
Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.
Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến. Đê điều không được chăm sóc.Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn khuyến khích cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.
Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc “cấm đạo”, đuổi giáo sĩ phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn , làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này.
Nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833-1835)…
1.Tại sao Duy tân Minh Trị thành công trong khi cuộc vận động Duy tân ở Trung Quốc (1988) và những đề nghị cải cách Duy tân ở Việt Nam lại thất bại?
2.Những điểm nào chứng tỏ đảng công nhân xã hội dân chủ nga là đảng kiểu mới?
3.Vì sao các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX lần lượt thất bại ?
4.Vì sao cuộc cách mạng Nga(1905-1907) là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.Trình bày ý nghĩa cuộc cách mạng Nga (1905-1907)
Giúp mk nha. Mk đang cần gấp lắm :))
Câu trả lời của bạn
câu 2
Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga triệt để đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp công nhân, mang tính giai cấp, tính chiến đấu triệt để.
Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga chống chủ nghĩa cơ hội tuân theo những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác (đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa , đưa giai cấp vô sản lên nắm chính quyền , xây dựng xã hội cộng sản). Đảng dựa vào quần chúng và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng
vì sao cuộc cải cách duy tân ở việt nam không được tổ chức?
giúp mình với ạ
Câu trả lời của bạn
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, thực dân Pháp ráo riết mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Nam Kì, chuẩn bị tấn công xâm lược toàn bộ nước ta. Trong khi đó, triều đình Huế lại thi hành chính sách đối nội, đối ngoại lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của đất nước về kinh tế và xã hội.
Do các đề nghị mang tính lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ cơ sở bên trong, chưa động chạm đến vấn đề cơ bản của thời đại: giải quyết 2 mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với Pháp và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Triều đình nhà Nguyễn bảo thủ, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh nên không chấp nhận các đề nghị cải cách.
Tác dụng: Gây được tiếng vang lớn, dám tấn công vào tư tưởng bảo thủ, phản ánh trình độ nhận thức mới của những người Việt Nam hiểu biết, thức thời.
Hoàn cảnh, nội dung, kết cục của các nhà cải cách Duy Tân ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX
Cuộc khởi nghĩa Duy Tân ở Việt Nam có điều gì khác so với cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản
mình đg cần gấp nên các bn giúp mình câu hỏi này nha!
Câu trả lời của bạn
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
(hơi dài :((
cuoc van dong duy tan o trung ki co anh huong nhu the nao doi voi phong trao quan chung thoi bay gio
Câu trả lời của bạn
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, với sự xâm lược, bình định và khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, nước ta có sự biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội. Đây là cơ sở xã hội bên trong cho việc tiếp nhận những luồng tư tưởng cứu nước. Từ đó tạo nên một phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX, đánh dấu bước tiến của lịch sử dân tộc, phát triển đất nước theo con đường văn minh tiến bộ, đó là phong trào Duy tân. Phong trào này diễn ra trên cả nước nhưng mạnh mẽ nhất là ở Trung kì, trong đó có hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Sự biến đổi của xã hội Việt Nam vào đầu thế kỉ XX, cộng với sự ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua con đường Nhật Bản và Trung Quốc đã tạo nên những nhận thức mới trong những sĩ phu yêu nước Việt Nam. Luồng gió duy tân từ Nhật Bản và Trung Quốc qua các tân thư đã được các sĩ phu Việt Nam đón nhận nhiệt liệt. Đặc biệt sự kiện gây chấn động với họ là cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905). Nước Nhật đã đại thắng nước Nga nhờ có công cuộc Minh Trị duy tân (1867-1912), càng khiến cho sĩ phu Việt Nam quyết tâm đi tìm con đường cứu nước bằng duy tân, đổi mới đất nước, tiêu biểu là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… Các ông đã phát động phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Chủ trương của phong trào trước hết là nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, mở mang trình độ hiểu biết cho người dân để có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Cùng với cuộc cách mạng về Tân học, Phan Châu Trinh còn chủ trương “tự cường, tự lập dân tộc”. Ông đã cùng nhiều đồng chí khác hô hào phát trển phong trào dưới nhiều hình thức phong phú như lập các hội tóc ngắn, hội học, hội thương, hội nông… và sự phát triển của phong trào chống sưu thuế trên toàn Trung kỳ. Đặc biệt, phong trào Duy Tân ở Trung kỳ đã diễn ra rộng khắp trên các tỉnh, từ Quảng Nam lan rộng sang các tỉnh khác trong đó có Nghệ An, Hà Tĩnh với tính chất đấu tranh quyết liệt, quy mô rộng lớn.
Tại Nghệ An và Hà Tĩnh, hai nhân vật nhiệt thành với công cuộc cải cách là Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế. Hai ông cùng góp vốn lập Triều Dương thương quán (tháng 6-1906). Được sự hưởng ứng đông đảo của giới sĩ phu và dân chúng, phong trào ngày càng phát triển mạnh, nhất là trong các trường học nổi tiếng ở vùng Nghệ - Tĩnh như trường Võ Liệt ở huyện Thanh Chương (Nghệ An) và trường Phong Phú ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh). Bởi vậy, chính quyền thực dân và phong kiến tìm mọi cách ngăn cấm. Đặng Nguyên Cẩn đang là đốc học Hà Tĩnh bị đổi vào Bình Thuận (đầu năm 1907), Ngô Đức Kế bị bắt vì tội "mưu loạn".
Cùng với việc hưởng ứng phong trào Duy Tân, trong thời gian này các cuộc vũ trang chống Pháp vẫn tồn tại ở Nghệ Tĩnh. Lê Quyên người Đức Thọ và Ngô Quảng người Nghi Lộc vẫn duy trì căn cứ ở Bố Lư (huyện Nghi Lộc) và Hồng Lĩnh (huyện Nghi Xuân), tổ chức các hoạt động vũ trang chống Pháp. Phong trào chống sưu thuế ở miền Trung năm 1908 nổi lên như một sự kiện tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Người khởi xướng phong trào này ở Hà Tĩnh là Lê Văn Quyên (tức Đội Quyên). Người lãnh đạo chủ chốt trong phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh là Nguyễn Hàng Chi và một số sĩ phu khác. Các ông còn tích cực vận động Duy Tân, mở rộng Triều Dương thương quán ra huyện Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Thanh Chương. Những yếu nhân này đã tìm cách liên lạc với các sĩ phu trong và ngoài tỉnh để mở rộng, liên kết phong trào nhằm chống chính sách thống trị của thực dân Pháp và sự bóc lột của chính quyền phong kiến, đòi quyền lợi cho quần chúng nhân dân.
Mục tiêu của phong trào đã đáp ứng đúng nguyện vọng của người nông dân, vì thế lực lượng tham gia phong trào xin xâu, giảm thuế (phong trào kháng thuế ở Trung kì năm 1908) chủ yếu là nông dân. Mở đầu phong trào trên đất Hà Tĩnh là cuộc đấu tranh của nông dân huyện Can Lộc, sau đó lan khắp các phủ, huyện trong tỉnh. Phong trào diễn ra mạnh mẽ nhất là ở huyện Nghi Xuân, Thạch Hà (Hà Tĩnh), huyện Thanh Chương, Hưng Nguyên, Quỳnh Lưu, Yên Thành (Nghệ An).
Các cuộc vận động đấu tranh chống thuế, xin xâu diễn ra dưới hình thức biểu tình là chủ yếu. Ban đầu họ cùng nhau dán tờ hiệu triệu lên các cây to ngoài đường để hô hào, kêu gọi nhân dân cùng tham gia. Tại Hà Tĩnh, từng đoàn người không có vũ khí từ các tổng, xã kéo đến phủ, huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ... để đấu tranh. Tuy vậy, một số cuộc biểu tình được chuẩn bị các loại vũ khí thô sơ, sẵn sàng chống lại sự đàn áp của chính quyền đã tạo nên được sức mạnh đáng kể trong các cuộc biểu tình đấu tranh chống thuế.
Đến cuối năm 1907, thực dân Pháp cấm học hành diễn thuyết, giải tán hội buôn, trường học, bắt bớ tù đày, kết án tử hình các yếu nhân của phong trào Duy Tân Trung kì như Trần Quý Cáp, Lê Khiết, Nguyễn Bá Loan, Nguyễn Hàng Chi…và hàng trăm người bị đày đi Côn Đảo, Lao Bảo trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Khúc Kháng, Phan Thúc Duyên, Trần Cao Vân, Ngô Đức Kế… Những hoạt động đàn áp của thực dân Pháp thời kỳ này được xem là “thời kỳ khủng bố trắng” không chỉ đối với phong trào Duy Tân mà còn đối với các hoạt động mang tích chất chống Pháp lúc bấy giờ.
Sau cuộc đàn áp dã man của bọn thực dân, phong trào Duy Tân đã thất bại nhưng phong trào Duy Tân ở Trung kỳ nói chung, Nghệ - Tĩnh nói riêng có vai trò quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Nó thể hiện tinh thần cương quyết chống lại cường quyền nô dịch, khát vọng xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tiến bộ, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Phong trào Duy Tân đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc vận động cách mạng Việt Nam, ươm mầm những hạt giống tư tưởng tiến bộ được kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp thu và xây dựng thành đường lối cách mạng Việt Nam đã hoàn thành được khát vọng của cả dân tộc là đưa đất nước thoát khỏi cảnh lầm than, phát triển theo con đường tiến bộ - con đường chủ nghĩa xã hội
Cũng trong những năm đầu thế kỉ XX, cuộc vận động Duy tân (theo cái mới) diễn ra sôi nổi tại Trung Kì. Lãnh đạo phong trào là Phan Châu Trinh. Huỳnh Thúc Kháng v.v... Gần giống như phong trào Đông Kinh nghĩa thục ờ Bắc Kì, hình thức hoạt động của phong trào Duy tân rất phong phú : mở trường, diễn thuyết về các đề tài sinh hoạt xã hội, tình hình thế giới, tuyên truyền đả phá các hủ tục phong kiến lạc hậu, đua nhau cắt tóc ngắn, mặc áo ngắn, đả kích quan lại xấu, cổ động việc mở mang công, thương nghiệp... Anh hương của phong trào rất mạnh. Đến năm 1908, dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào Duy tân, một phong trào chống đi phu, chống sưu thuế diễn ra rầm rộ ở Quảng Nam. sau đó là Quảng Ngãi, rồi lan ra một số tỉnh ở Trung Kì. Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp. bắt bớ, tù đày. tuyên án xử tử nhiều nhà yêu nước, trong đó có Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp...
15/ vì sao các đề nghị cải cách ở Việt Nam cuối thế kỉ 19 không thực hiện được
Câu trả lời của bạn
ác đề nghị cải cách ở nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX không được thực hiện vì triều đình nhà Nguyễn bảo thủ, không muốn thay đổi hiện trạng đất nước. Biết được thực trạng của đất nước nhưng họ vẫn từ chối mọi cải cách, kể cả những cải cách có khả năng thực hiện. Chính vì vậy đã khiến cho đất nước luẩn quẩn trong vòng lạc hậu, bế tắc của chế độ phong kiến đương thời.
Những đề nghị cải cách ở Việt nam cuối thế kỉ XIX
- Trong hoàn cảnh đất nước bị khủng hoảng, nhân dân sống cơ cực, địch họa kề bên, một số sĩ phu yêu nước tiến bộ hi vọng cải cách để cứu vãn tình thế. Vào những năm 60 của thế kỉ XX, có nhiều ý kiến đề xuất cải cách được dâng lên triều đình.
- Tiêu biểu là:
+ Năm 1868, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định) thông thương với bên ngoài; Đinh Văn Điền xin khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
+ 1863-1871: Nguyễn Trường Tộ đã kiên trì gửi triều đình 60 bản điều trần, đề cập đến một loạt vấn đề như chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công - thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục...
+ Năm 1872, Viện Thương Bạc xin mở ba cửa biển ở miền Bắc và miền Trung để thông thương với bên ngoài.
+ 1877-1882: Nguyễn Lộ Trạch dâng hai bản "Thời vụ sách" lên vua Tự Đức đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
* Những đề nghị cải cách này không được thực hiện, vì:
- Đất nwocs khủng hoảng: kinh tế suy yếu, chính trị - xã hội không ổn định. Nhân tài vật lực kiệt quệ không đủ khả năng tiến hành.
- Triều đình nhà Nguyễn bảo thủ, cố chấp, bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh, khư khư ôm lấy cái cũ và không chịu đổi mới (do ý thức hệ phong kiến quá lâu, quá sâu). Những người có tư tưởng cải cách, ủng hộ cải cách không phải là người nắm quyền lực cao trong triều đình.
- Thiếu sự đồng thuận từ trên (vua và triều đình) đến dưới (thiếu sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân)... Bản thân các đề nghị cải cách còn có những hạn chế: tản mạn, rời rạc, không cụ thể, thiếu tính toàn diện, thiếu tính khả thi.
- Đất nước đã bị Pháp xâm lược (hoàn cảnh đất nước có chiến tranh) nên khó tiến hành cải cách.
* Điều kiện để thực hiện một cuộc cải cách:
- Cải cách là yêu cầu khách quan của lịch sử, muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải cải cách.
- Để một cuộc cải cách thành hiện thực phải có các điều kiện:
+ Sự đồng thuận từ trên xuống dưới, quyết tâm của người lãnh đạo, ủng hộ của nhân dân.
+ Phải có điều kiện thuận lợi đảm bảo công cuộc cải cách giành thắng lợi.
+ Đề nghị cải cách phù hợp với đất nước (thiên thời, địa lợi, nhân hòa).
Các đề nghị cải cách ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX không thực hiện được vì:
- Các đề nghị cải cách vẫn mang tính chất lẻ tẻ, rời rạc, chưa xuất phát từ những cơ sở bên trong, chưa động chạm tới những vấn đề cơ bản của thời đại : Giải quyết hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp xâm lược và giữa công dân với thuộc địa phong kiến
- Triều đình phong kiến bảo thủ,bất lực trong việc thích ứng với hoàn cảnh nên đã không chấp nhận những thay đổi và từ chối mọi đề nghị cải cách.
14/ kể tên các nhà cải cách cuối thế kỉ 19. Trình bày nội dung 1 số đề nghị cải cách
Câu trả lời của bạn
- Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế (1868): xin mở cửa biển Trà Lí (Nam Định). Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn đất hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng.
- Nguyễn Trường Tộ (1863 - 1871): đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại. phát triển công, thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao, cải tổ giáo dục,…
- Nguyễn Lộ Trạch (1877 - 1882): đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí, bảo vệ đất nước.
ên các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX | Nội dung cải cách |
Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế | Xin mở cửa biển Trà Lí. |
Đinh Văn Điền | Xin đẩy mạnh việc khai khẩn ruộng hoang và khai mỏ, phát triển buôn bán, chấn chỉnh quốc phòng. |
Viện Thương Bạc | Xin mở ba cửa biển ở miền Trung và Bắc để thông thương với bên ngoài. |
Nguyễn Trường Tộ | Gửi đến triều đình 30 bản điều trần, đề cập đến vấn đề chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công thương nghiệp và tài chính, chỉnh đốn võ bị, mở rộng ngoại giao,... |
Nguyễn Lộ Trạch | Dâng hai bản "Thời vụ sách" lên vua Tự Đức, đề nghị chấn hưng dân khí, khai thông dân trí và bảo vệ đất nước. |
13/ trình bày những hạn chế của các đề nghị cải cách cuối thế kỉ 19
Câu trả lời của bạn
Những đề nghị cải cách cuối thể kỉ XIX của các sĩ phu, quan lại yêu nước đáp ứng phần nào yêu cầu của nước ta lúc đó, có tác động tới cách nghĩ và làm củ một bộ phận quan lại triều đình. Tuy nhiên, nó vẫn còn có nhiều hạn chế như vẫn còn mang tính rời rạc, chưa giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó.
Hạn chế :
- mang tính chất lẻ tẻ,rời rạc,chưa xuất phát từ cơ sở bên trong
- chưa động chạm tới những vấn đề cơ bản của thời đại là giải
quyết những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc .
Nhận xét mặt tích cực, hạn chế của trào lưu Duy Tân?????
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *