Với bài học này, các em sẽ được tiếp cận với kiến thức về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1986 - 2000: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Nội dung đường lối đổi mới
Những nội dung chính các em cần nắm sau bài học này là:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 12 Bài 26 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Đại hội lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là đại hội của:
Mục tiêu của Ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, được đề ra trong Đại hội nào của Đảng?
Chủ trương đổi mới của Đại hội VI là gì?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức và nắm vững hơn về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 12 Bài 26để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận 1 trang 209 SGK Lịch sử 12 Bài 26
Bài tập Thảo luận 2 trang 209 SGK Lịch sử 12 Bài 26
Bài tập Thảo luận 1 trang 216 SGK Lịch sử 12 Bài 26
Bài tập Thảo luận 2 trang 216 SGK Lịch sử 12 Bài 26
Bài tập 1 trang 216 SGK Lịch sử 12
Bài tập 2 trang 216 SGK Lịch sử 12
Bài tập 1.1 trang 136 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.2 trang 136 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.3 trang 136 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.4 trang 136 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.5 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.6 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.7 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.8 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.9 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.10 trang 137 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 1.11 trang 138 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 2 trang 138 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 3 trang 138 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 4 trang 139 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 5 trang 139 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 6 trang 140 SBT Lịch Sử 12
Bài tập 7 trang 140 SBT Lịch Sử 12
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 12 DapAnHay
Đại hội lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là đại hội của:
Mục tiêu của Ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, được đề ra trong Đại hội nào của Đảng?
Chủ trương đổi mới của Đại hội VI là gì?
Điền những từ thích hợp vào câu sau đây: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là...
Trong những thành tựu quan trọng bước đầu của công cuộc đổi mới, thành tựu nào quan trọng nhất?
Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội trong điều kiện như thế nào?
Đường lối đổi mới của Đảng được điều chỉnh, bổ sung, phát triển tại các kì Đại hội nào của Đảng?
Trong số 3 chương trình kinh tế của kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), chường trình nào phải được đưa lên hàng đầu?
Đường lối đổi mới của Đảng được hiều như nào là đúng?
Hoàn cảnh nào đưa đến việc Đảng ta phải thực hiện đường lối đổi mới?
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới trong hoàn cảnh đất nước và thế giới như thế nào?
Hãy nêu nội dung đường lối đổi mới kinh tế và chính trị của Đảng.
Nêu nhiệm vụ và mục tiêu của từng kế hoạch Nhà nước 5 năm: 1986 - 1990, 1991 - 1995, 1996 - 2000.
Trình bày những thành tựu và yếu kém về kinh tế - xã hội của nước ta trong từng kế hoạch Nhà nước 5 năm: 1986-1900, 1991-1995, 1996-2000.
Nêu ý nghĩa của những thành tựu về kinh tế-xã hội của nước ta trong 15 năm (1986-2000) thực hiện đường lối đổi mới.
Hãy nêu những khó khăn và yếu kém về kinh tế-xã hội của nước ta sau 15 năm (1986-2000) thực hiện đường lối đổi mới.
Nguyên nhân quan trọng nhất quyết định phải tiến hành công cuộc đổi mới đất nước là gì?
A. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là khủng hoảng kinh tế - xã hội.
B. Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
C. Sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật.
D. Những thay đổi của tình hình thế giới và mối quan hệ giữa các nước.
Đại hội toàn quốc của Đảng đánh dấu bước chuyển sang thời kì đổi mới là
A. Đại hội IV.
B. Đại hội V.
C. Đại hội VI.
D. Đại hội VII.
Vấn đề quan trọng nhất quyết định nguyên nhân nước ta tiến hành công cuộc đổi mới là gì?
A. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là khủng hoảng kinh tế - xã hội
B. Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu
C. Sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật
D. Những thay đổi của tình hình thế giới và mối quan hệ giữa các nước
Đường lối đổi mới của Đảng diễn ra trong lĩnh vực kinh tế - xã hội là
A. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới xã hội, trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
B. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, đổi mới chính trị gắn liền với đổi mới tư tưởng, trọng tâm là đổi mới về chính trị.
C. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, trọng tâm là đổi mới về chính trị.
D. Đổi mới toàn diện và đồng bộ, đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, trọng tâm là đổi mới về kinh tế
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra chủ trương về kinh tế là
A. Tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
B. Tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp nặng.
C. Tập trung thực hiện bốn chương trình kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
D. Tập trung thực hiện bốn chương trình kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp nặng.
Thành tựu về lương thực - thực phẩm của nước ta đầu thập kỉ 90 là
A. Đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần ổn định đời sống nhân dân.
B. Trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
C. Đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, không phải nhập từ bên ngoài.
D. Trở thành nước xuất khẩu gạo đứng đầu Đông Nam Á.
Khó khăn, yếu kém trong công cuộc đổi mới những năm 1986 - 1990 biểu hiện ra sao?
A. Năm 1988, nước ta vẫn còn phải nhập khẩu 45 vạn tấn gạo.
B. Hàng tiêu dùng tuy dồi dào, đa dạng nhưng việc lưu thông còn gặp những khó khăn.
C. Chưa có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao.
D. Nền kinh tế còn mất cân đối, lạm phát cao, hiệu quả kinh tế thấp.
Thành tựu nổi bật trong quan hệ quốc tế của Việt Nam năm 1995 là gì?
A. Có quan hệ ngoại giao với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ.
B. Có quan hệ thương mại với hơn 100 nước.
C. Bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kì và gia nhập ASEAN.
D. Các công ty của hơn 50 nước đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" là
A. Đại hội V.
B. Đại hội VI.
C. Đại hội VII.
D. Đại hội VIII.
Nguyên nhân cơ bản nhất của những thắng lợi mà Nhà nước và nhân dân ta đạt được trong 15 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 2000) là
A. Đảng kịp thời điều chỉnh đường lối qua từng kì đại hội sát với thực tiễn.
B. Đảng chủ trương đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ.
C. Đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, những bước đi phù hợp, nên nhanh chóng đi vào cuộc sống, khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân.
D. Nước ta mở rộng được quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, cô lập của các lực lượng thù địch, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta là gì?
A. Nắm bắt được thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước tiến lên
B. Coi giáo dục và đào tạo, khoa học - kĩ thuật là quốc sách hàng đầu
C. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
D. Nắm bắt xu thế phát triển của thế giới, phát huy nội lực trong nước
Hãy điền chữ Đ vào ô ☐ trước câu đúng hoặc chữ s vào ô ☐ trước câu sai:
1. ☐ Đường lối đổi mới của Đảng được điều chỉnh và bổ sung tại Đại hội VI (12 - 1986).
2. ☐ Mục tiêu của Ba chương trình kinh tế do Đại hội VI của Đảng đề ra bao gồm: luơng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
3. ☐ Đến năm 1990, ở nước ta bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. ☐ Ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
5. ☐ Đến năm 2000, cơ cấu các ngành kinh tế nước ta từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
6. ☐ Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 2000), vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Hãy điền thời gian cho phù hợp với sự kiện trong dấu ... dưới đây:
1....Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam
2.....Sản xuất lương thực đạt 21,4 triệu tấn
3.....Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam
4.....Việt Nam và Hoa Kì thiết lập quan hệ ngoại giao
5.....Việt Nam gia nhập ASEAN
6.....Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
7.....Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối đổi mới của được Đảng được đề ra trong hoàn cảnh nào? Nội dung đường lối đổi mới.
1. Hoàn cảnh:
2. Nội dung đường lối đổi mới:
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
– Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra lần đầu tiên tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986). Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính sách xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả của những biến động chính trị. Hơn nữa, công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn lao, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những kinh nghiệm cải cách của các nước cũng là sự gợi mở cho Việt Nam trong sự nghiệp tìm tòi con đường đổi mới. Vì vậy, những quan điểm đổi mới của Việt Nam được hình thành không chỉ đúc kết kinh nghiệm của nước mình mà còn từ những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa khác.
– Nội dung đường lối đổi mới: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả, bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp.
– Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ trọng tâm là đổi mới kinh tế.
– Về đổi mới kinh tế: Sự chuyển từ chiến tranh sang hoà bình đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các cản trở về quản lý kinh tế và sau đó dẫn đến những thay đổi trong quan niệm từ sự vận hành của nền kinh tế.
– Chủ trương đổi mới về kinh tế của Đảng ta là, xoá bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, báo cấp hình thành cơ chế th trường, xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành nghề, nhiều quy mô và trình độ công nghệ; phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
– Về đổi mới chính trị: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác.
Câu trả lời của bạn
– Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
– Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
– Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.
– Một đặc điểm khác đáng chú y nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghịệp đổi mới tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành nhiều thắng lợi.
– Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đối mới về chính trị, xã hội, văn hoá với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Khoa học – công nghệ cùng với giáo dục – đào tạo được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
– Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, địa phương hoá, địa dạng hoá các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
– Tháng 7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
– Tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM) gồm
10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10/2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
– Tháng 11/1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu A – Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương ở ven hai bịờ Thái Bình Dương.
– Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mơ rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát trịển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
– Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Câu trả lời của bạn
– Từ thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học sau đây:
a) Trong quá trình đổi mới phải kiện định mục tiêu độc lập dân tộc ưà chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hổ Chí Minh
– Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong tám thập kỉ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó. Trong hơn 20 năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỉ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xă hội hiện thực bị lâm vào thoái trào phong trào cách mạng thế giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động đến cách mạng nước ta. Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn – con đường hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát triển của nhân loại.
– Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác — Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
— Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn để xây dựng nền kinh tế th trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vi dân.
– Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác I Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiện định tính biện chứng, là điều kiện cơ bản bảo đâm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.
b) Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp
– Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, nếu xác định đúng mục tiêu, song không xác định đúng phương hướng, bước đi thì vẫn có thể không thành công. Đối với nước ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách mạng, toàn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
– Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên phải xác định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững các mối quan hệ biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và quốc phòng — an ninh trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng.
– Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoá nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế th trường, những giá trị tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
– Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nước ta đã bảo đảm tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt với phát triển văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội. Gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hoá và bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng trưởng kinh tế đi đối với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng – an ninh và đối ngoại.
Câu trả lời của bạn
– Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về
ban chất mạng tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn tù nhân dân vì
lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân
dân, của cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành
chủ trương đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, thể hiện ý Đảng lòng dân nên được toàn dân ủng hộ và thực hiện một
cách sáng tạo đã giải phóng được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất – nhân tố
quyết định sự phát triển xã hội, khơi dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
d) Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới
– Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố quyết định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
– Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng những thành tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh tế – xã hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại của thế giới.
– Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn, đã thiết lập ngoại giao với 167 nước, có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WBI), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADBỊ), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng th trường để phát triển đất nước.
– Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai thác ngoại lực, sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực phản động trong nước và quốc tế ra sức cổ súy, hô hào đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập theo “mô hình” tư bản phương Tây, nhất là trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc các khóa. Chúng ra sức chống phá Đảng và Nhà nước ta, nhằm mục tiêu phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Bài viết dưới đây chứng minh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 1. Sự lãnh đạo của đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến đã lỗi thời, ngọn cờ của giai cấp tư sản cũng không phất cao lên được, điển hình là thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thực chất là cuộc khủng hoảng về sự lãnh đạo cách mạng của một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là chính đảng cách mạng. Đất nước trong cơn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Qua một quá trình chuẩn bị, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận động cách mạng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó đến nay. Đảng ra đời sớm có Cương lĩnh cách mạng đầu tiên đúng đắn. Cương lĩnh xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản… Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”(1). Cương lĩnh đáp ứng đúng yêu cầu của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng giành được quyền lãnh đạo phong trào cách mạng, đồng thời phản ánh vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ngay từ khi mới ra đời. Đánh giá sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(2). Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến đã không thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta; ở chỗ, nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-1939”(3). Đây là “cuộc tổng diễn tập đầu tiên” cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả việc lợi dụng các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng nước ta cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. Đảng nhận định đây là thời kỳ mà ách áp bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân dân ngày càng cách mạng hóa, cách mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị vũ trang đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ. Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền nhanh gọn trong cả nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền. Đánh giá về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(4) . Sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước, trước nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù trong giặc ngoài gây ra, tình hình đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Với sự lãnh đạo sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở, lướt sóng đi lên. Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó cho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã “được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lêninnít”. Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” và đã giành được thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời, cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và XHCN trên thế giới”(5). Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH trên đất nước ta. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”(6). Hơn 30 năm đổi mới là giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, thể hiện tài năng lãnh đạo của Đảng ta. Đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá; nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hình thành; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Thời gian là hòn đá thử vàng, 90 năm qua là giai đoạn đặc biệt của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, là thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều thách thức, có lúc hiểm nghèo. Mỗi lần vượt qua thách thức, Đảng và dân tộc ta lại trưởng thành, vươn lên tạo dựng những mốc son mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ tài năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chỉ điểm qua những kết quả nêu trên, có thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 2. Tiếp tục nâng cao vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới Bước sang giai đoạn mới, để nâng cao vai trò và sự lãnh đạo, Đảng cần tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(7). Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đúng với tư cách nền tảng pháp lý cho quyền làm chủ của nhân dân. Ở đó, sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước cần rõ ràng, rành mạch, không trùng chéo, tạo ra sự hỗ trợ, tương tác và kiểm tra, giám sát lẫn nhau để vận hành hiệu quả của các cơ quan quyền lực trên cơ sở phát huy cao nhất sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó cũng là cơ sở pháp lý nâng cao vai trò và sự lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị nước ta. Thứ năm, nâng cao năng lực lãnh đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kiên trì phấn đấu hoàn thiện cơ bản và đồng bộ hệ thống thể chế theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Thứ sáu, thực hiện tốt mục tiêu mà Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng vừa qua đã đề ra: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ công chức, viên chức”(8). Thứ bảy, thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu mà các Hội nghị Trung ương khóa XII của Đảng vừa qua đã đề ra: Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. đi vào chiều sâu. Chuẩn bị thật tốt những vấn đề cơ bản về nội dung và nhân sự đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Thứ tám, cần xác định đấu tranh PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và của toàn hệ thống chính trị. Là một đảng cầm quyền, Đảng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về PCTN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện nghiêm về kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức và trách nhiệm công vụ. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong PCTN, lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và sự đồng thuận trong xã hội về PCTN, lãng phí. Đảng ta khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ XHCN, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhân dịp đón Xuân Canh Tý 2020, chúng ta có thể tự hào rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.
để xóa nạn mù chữ đảng và chính phủ đã thực hiện biện pháp nào
Câu trả lời của bạn
Thành lập Nha bình dân học vụ (8/9/1045)
A. Thắng lợi trên bàn đàm phán thúc đẩy chiến thắng quân sự.
B. Thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi trên bàn đàm phán.
C. Thắng lợi quân sự có tác động đến thắng lợi trên bàn đàm phán.
D. Thắng lợi trên bàn đàm phán ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản.
Câu trả lời của bạn
Phân tích quá trình đấu tranh ngoại giao, liên hệ.
Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cho thấy chiến thắng trên mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao có mối liên hệ mật thiết:
- Chiến thắng quân sự có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi trên bàn đàm phán:
+ Chiến thắng Điện Biên Phủ buộc Mĩ phải kí Hiệp định Giơnevơ.
+ Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari.
- Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao có ý nghĩa phản ảnh thắng lợi trên mặt trận quân sự.
Hình thức đấu tranh của nhân dân miền Nam sau khi ký Hiệp định Pari năm 1973 khác với thời kỳ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 như thế nào?
Câu trả lời của bạn
So sánh, liên hệ.
- Sau Hiệp định Giơnevơ (1954): (sgk trang 162): Đảng ta chỉ trương chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm -> khi Mĩ - Diệm tăng cường khủng bố, đàn áp: ta tiến hành chiến tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới.
- Sau Hiệp định Pari (1973): (sgk trang 191) tiếp tục con đường cách mạng bạo lực, nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
Nội dung cơ bản nhất trong Hiệp định Pari (1973) phù hợp với nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Phân tích nội dung Hiệp định, liên hệ với nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc
Nội dung cơ bản nhất của Hiệp định Pari và Mĩ phải công nhận của Việt Nam là: Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
=> Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động đầu tiên của tổ chức Liên hợp quốc: Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc.
Bài học kinh nghiệm nào trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975) được Đảng ta vận dụng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Phân tích bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, liên hệ
Bài học kinh nghiệm nào trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975) được Đảng ta vận dụng trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia hiện nay là giữ vũng độc lập, tự chủ, không đánh đổi chủ quyền lấy hòa bình, hữu nghị viển vông (điều này thể hiện rõ nhất trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Đảng ở Biển Đông).
A. Từng bước đàm phán và buộc Mĩ phải kí Hiệp định Pari.
B. Từng bước đàm phán và buộc Mĩ rút hết quân về nước.
C. Từng bước đàm phán và buộc Mĩ phá bỏ các căn cứ quân sự.
D. Từng bước đàm phán và buộc Mĩ ngừng ném bom phá hoại miền Bắc.
Câu trả lời của bạn
- Đáp án A đúng vì đây là nội dung bao trùm trong vấn đề ngoại giao giữa ta và Mĩ. Từ sau chiến thắng Mậu Thân 1968 của ta, Mĩ đã chấp nhận đến đàm phán với ta tại Pari. Tuy nhiên, xuất phát từ lập trường khác nhau nên cuộc đàm phán đã bị kéo dài kéo dài tới 4 năm 8 tháng 14 ngày, từ 15/3/1968 đến 27/1/1973.
- Đáp án B loại vì việc đàm phán có nhiều nội dung và việc Mĩ rút quân chỉ là 1 nội dung quan trọng trong các nội dung đàm phán tại Hội nghị Pari.
- Đáp án C loại vì điều này không có trong nội dung đàm phán.
- Đáp án D loại vì việc Mĩ chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc xuất phát từ những thất bại thực tế trên chiến trường chứ không phải do việc đàm phán.
A. xây dựng cơ sở vật chất của CNXH.
B. thông qua nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
C. bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
D. thông qua báo cáo chính trị.
Câu trả lời của bạn
So sánh nội dung Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) với Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951)
- Đáp án B, C, D loại vì đây là điểm chung của hai Đại hội.
- Đáp án A là điểm khác vì: sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc được giải phóng, còn miền Nam phải tiếp tục thực hiện cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thực tiễn đặt ra yêu cầu đối với miền Bắc là cần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ hậu phương còn miền Nam cần tiến hành chống Mĩ để giải phóng hoàn toàn và đi đến thống nhất đất nước => ở Đại hội III năm 1960, Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Điều này là điểm khác biệt so với Đại hội II năm 1951.
A. 194.
B. 149.
C. 195.
D. 159.
Câu trả lời của bạn
Dựa vào thông tin được cung cấp để trả lời
Ngày 20 - 9 - 1977, Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc, trở thành thành viên thứ 149.
A. xây dựng mối quan hệ hợp tác với Liên hợp quốc chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực.
B. trở thành ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kì 2008 - 2009.
C. có tiếng nói ngày càng quan trọng trong tổ chức Liên hợp quốc.
D. tham gia chương trình an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, quyền trẻ em, tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc.
Câu trả lời của bạn
Dựa vào thông tin được cung cấp, liên hệ hiểu biết về mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc.
Trong các lĩnh vực công việc cụ thể của Liên hợp quốc, Việt Nam với tư cách là một trong 66 thành viên của Hội nghị giải trừ quân bị tại Giơnevơ đã tích cực tham gia vào các hoạt động của diễn đàn nhằm thực hiện mục tiêu giải trừ quân bị toàn diện và triệt để do Liên hợp quốc đề ra. Việt Nam nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của các điều ước quốc tế về chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thực hiện đầy đủ các nghị quyết của Hội đồng bảo an về báo cáo các biện pháp thực hiện các điều ước này, mới đây đã phê chuẩn Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện và ký Nghị định thư bổ sung cho Hiệp ước Bảo đảm Hạt nhân theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Chúng ta ủng hộ các cố gắng của các nước cùng Liên hợp quốc, tìm những giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột khu vực và đang hoàn tất quá trình chuẩn bị liên quan đến việc tham gia một cách có hiệu quả vào Hội đồng Giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc, phù hợp với điều kiện và khả năng của Việt Nam. Chúng ta coi trọng việc tăng cường đối thoại với các nước, hợp tác quốc tế trong và ngoài Liên hợp quốc trên các vấn đề liên quan đến việc thúc đẩy quyền con người. Trong đó có báo cáo về việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên và tham gia vào các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc như ECOSOC, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Đại hội đồng, Ủy hội nhân quyền và nay là Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc.
Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá cao về việc hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, triển khai thành công đồng thời chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện các chương trình hành động của các hội nghị Liên hợp quốc về phát triển xã hội, môi trường, an ninh lương thực, tài chính cho phát triển, nhà ở, nhân quyền, dân số và phát triển, phụ nữ, trẻ em, chống phân biệt chủng tộc, phòng chống HIV/AIDS,...
=> Như vậy, Việt Nam từ khi tham gia Liên hợp quốc đã có những đóng góp vào việc thực hiện chống tham nhũng, tham gia chương trình an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, quyền trẻ em, tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình Liên hợp quốc.
A. 2008 - 2009.
B. 2011 - 2012.
C. 2018 - 2019.
D. 2020 - 2021.
Câu trả lời của bạn
Xem lại sự thành lập Liên hợp quốc và thông tin được cung cấp
Ngày 16 - 10 - 2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhiệm kì 2008 - 2009.
A. Lấy phát triển chính trị làm trung tâm.
B. Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm.
C. Lấy phát triển kinh tế, chính trị làm trung tâm.
D. Lấy phát triển văn hóa làm trung tâm.
Câu trả lời của bạn
Đường lối đổi mới của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra là: lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa linh hoạt hơn, nhằm hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, với mục tiêu biến Trung Quốc thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ và văn minh.
A. Tuyên bố ZOPFAN.
B. Hiệp ước hòa bình, thân thiện.
C. Hiệp ước thân thiện và hợp tác.
D. Tuyên bố Bali.
Câu trả lời của bạn
Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali (Inđônêxia) tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Bali).
A. Inđônêxia.
B. Malayxia.
C. Thái Lan.
D. Xingapo.
Câu trả lời của bạn
Nhóm năm nước sáng lập ASEAN bao gồm: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm nước này khá cao. Điển hình là Xingapo, với tốc độ tăng trưởng 12% (1966 - 1973) và trở thành “con rồng” nổi trội nhất trong bốn “con rồng” kinh tế của châu Á là Xingapo, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông.
A. Thành lập sau khi khôi phục kinh tế, có nhu cầu liên minh, hợp tác để phát triển kinh tế.
B. Mục tiêu thành lập là liên minh kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự để thoát khỏi sự ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài.
C. Ban đầu có 6 nước thành viên, về sau mở rộng ra nhiều nước khác.
D. Đều trở thành các tổ chức khu vực lớn nhất hành tinh.
Câu trả lời của bạn
So sánh mục tiêu thành lập của ASEAN với EU
Cả ASEAN và EU đều ra đời dựa trên cơ sở các nước thành viên đã giành được độc lập, khôi phục kinh tế (ASEAN: 5 nước, EU: 6 nước). Mục tiêu thành lập chung là mong muốn hợp tác, liên minh với nhau để cùng phát triển.
A. 7 - 1976.
B. 7 - 1977.
C. 9 - 1977.
D. 7 - 1979.
Câu trả lời của bạn
Dựa vào thông tin được cung cấp, kết hợp kiến thức địa lý
Từ tháng 9 - 1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *