Với bài học này, các em sẽ được tích lũy thêm kiến thức lịch sử Việt Nam giai đoạn 1925 đến năm 1930. Trong đó, có các sự kiện như: Sự ra đời và hoạt động của ba tổ chức cách mạng; Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
→ Các cuộc bãi công không còn bó hẹp trong phạm vi mà đã bắt đầu có sự liến kết thành phong trào chung.
→ Là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập, tự do là tư tưởng chủ yếu của cương lĩnh.
Qua bài học này, các em cần phải nắm vững các kiến thức về:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 12 Bài 13 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên được thành lập vào thời gian nào? Ở đâu?
Cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là:
Hãy nêu rõ thành phần và địa bàn hoạt động của Tân Việt cách mạng đảng?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức và nắm vững hơn về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 12 Bài 13để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận trang 86 SGK Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập Thảo luận 1 trang 89 SGK Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập Thảo luận 2 trang 89 SGK Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập 1 trang 89 SGK Lịch sử 12
Bài tập 2 trang 89 SGK Lịch sử 12
Bài tập 1 trang 65 SBT Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập 2 trang 69 SBT Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập 3 trang 70 SBT Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập 4 trang 70 SBT Lịch sử 12 Bài 13
Bài tập 5 trang 70 SBT Lịch sử 12 Bài 13
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 12 DapAnHay
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên được thành lập vào thời gian nào? Ở đâu?
Cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là:
Hãy nêu rõ thành phần và địa bàn hoạt động của Tân Việt cách mạng đảng?
Tân Việt cách mạng đảng đã phân hóa như thế nào dưới tác động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên?
Việt Nam Quốc dân đảng là một đảng chính trị theo xu hướng nào?
Mục tiêu của Việt Nam Quốc dân dảng là gì?
Khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) thất bại do nguyên nhân khách quan nào?
Báo “Búa liềm” là cơ quan ngôn luận của tố chức cộng sản nào được thành lập năm 1929 ở Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa các yếu tố nào?
Tại Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, có sự tham gia của các tổ chức cộng sản nào?
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng đảng và Việt Nam Quốc dân đảng đã ra đời và hoạt động như thế nào?
Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 có ý nghĩa như thế nào?
Trình bày hoàn cảnh lịch sử và diễn biến của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nêu nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là
A. chính đảng vô sản đầu tiên ở Việt Nam
B. tổ chức chính trị quá độ để tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
C. tổ chức cách mạng của Việt kiều tại Trung Quốc
D. một chi bộ của Quốc tế Cộng sản
2. Ý nào không phản ánh đúng hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên?
A. Học tập, giác ngộ lí luận về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
B. Viết sách, báo tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân.
C. Xây dựng tổ chức cơ sở ở trong và ngoài nước.
D. Tổ chức các vụ mưu sát, trừ khử bọn ác ôn.
3. Ý nào sau đây không phản ánh đúng tác động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên?
A. Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu rộng ở nước ta.
B. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, từng bước trở thành nòng cốt của phong trào cách mạng Việt Nam.
C. Sự phân hóa trào lưu tư tưởng theo khuynh hướng dân chủ tư sản và vô sản rõ ràng hơn.
D. Khuynh hướng phong kiến bị loại khỏi phong trào đấu tranh cứu nước.
4. Phong trào “vô sản hóa” là
A. hoạt động thường niên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Trung Quốc để kết nạp hội viên.
B. chủ trương phát triển phong trào đấu tranh theo khuynh hướng vô sản của Quốc tế Cộng sản đối với các nước Đông Dương.
C. hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khóa huấn luyện nhằm kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.
D. hoạt động nâng cao trình độ lí luận cách mạng vô sản cho các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
5. Việt Nam Quốc dân Đảng có gì nổi bật?
A. Là tổ chức cách mạng ra đời từ phong trào yêu nước, do giai cấp tư sản lãnh đạo.
B. Là chính đảng yêu nước do trí thức tiểu tư sản lãnh đạo.
C. Đặc biệt coi trọng việc tuyên truyền và gây dựng cơ sở trong dân.
D. Mở rộng phạm vi hoạt động ở khắp ba kì, đặc biệt là Nam Kì.
6. Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã chứng tỏ điều gì?
A. Khuynh hướng dân chủ tư sản không phù hợp với điều kiện Việt Nam.
B. Sự non yếu của giai cấp tư sản Việt Nam.
C. Quần chúng nhân dân không ủng hộ, không phối hợp đấu tranh.
D. Lịch sử nước ta phủ nhận con đường cách mạng bạo lực.
7. Nguyên nhân khiến Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã nhanh chóng là
A. thành phần lãnh đạo không phải là giai cấp tiên tiến.
B. không có cương lĩnh rõ ràng và manh động.
C. lực lượng chủ lực là nông dân, hạn chế về kinh nghiệm đấu tranh.
D. phạm vi ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân rất hạn chế.
8. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản năm 1929 là
A. xu thế vận động khách quan của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dưới tác động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
B. kết quả của Đại hội lần thứ nhất Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5-1929).
C. hệ quả của sự phân hóa và mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nước ta.
D. bước chuẩn bị đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc cho sự thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
9. Ý nào không phản ánh đúng hoàn cảnh nước ta trước khi diễn ra Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?
A. Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ.
B. Sự chia rẽ giữa ba tổ chức cộng sản ngày càng rõ rệt do những bất đồng về đường lối đấu tranh.
C. Giai cấp công nhân trưởng thành.
D. Chủ nghĩa Mác - Lê nin được truyền bá sâu rộng đến mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội.
10. Tư tưởng cốt lõi của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là
A. độc lập, tự do
B. con đường cách mạng vô sản
C. xây dựng chế độ cộng sản.
D. giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
11. Ý nào không phản ánh đúng về Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo?
A. Là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
B. Thể hiện những luận điểm cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam
C. Là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam.
D. Xác định đường lối chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng xã hội cộng sản.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam là
A. chính đảng cộng sản do trí thức tiểu tư sản lãnh đạo.
B. chính đảng cách mạng đại diện quyền lợi cho nhân dân lao động do giai cấp vô sản lãnh đạo.
C. chính đảng yêu nước được cải tổ từ Tổng bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
D. tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản do những người Việt Nam yêu nước sống tại Trung Quốc lập ra.
13. Ý nào đúng về Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930?
A. Có ý nghĩa như một đại hội.
B. Diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 6-1-1930 đến ngày 8-2-1930
C. Tham dự Hội nghị gồm đại biểu của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
D. Đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.
14. Nói: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc vì
A. Đảng là tổ chức cách mạng mang tầm vóc lịch sử lớn lao.
B. kể từ đây phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta đã có một chính đảng yêu nước chân chính lãnh đạo.
C. chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng ở nước ta.
D. đây là quyết định đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
15. Nói: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam vì
A. Đảng luôn đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
B. Đảng luôn coi trọng đường lối đấu tranh bạo lực và được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ.
C. Đảng luôn tôn chỉ lí tưởng cộng sản - lí tưởng cách mạng tiên tiến nhất của mọi thời đại.
D. Đảng là tổ chức lãnh đạo cách mạng duy nhất kể từ năm 1930 về sau ở Việt Nam.
Hãy hoàn thành bảng kiến thức về HVNCMTN và VNQDĐ trong thời gian từ năm 1925 đến năm 1927.
Hãy phân tích để làm rõ tính sáng tạo, đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hãy phân tích ý nghĩa sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930?
Hãy gạch chân những chỗ sai ở các câu dưới đây và giải thích tại sao?
1. Đông Dương Cộng sản đảng là chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
2. Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên rất chú trọng các hoạt động vũ trang để gây ảnh hưởng trong quần chúng.
3. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một tổ chức quá độ, phù hợp để tiến tới thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam
4. "Đường Kách mệnh" là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. "Vô sản hoá" là phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân chống lại việc thực dân Pháp .
6. Ngày 25 - 12 - 1927, VNQDĐ ra đời, chứng tỏ sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp tư sản dân tộc khi vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
7. Giống như HVNCMTN, VNQDĐ rất chú ý đến các hoạt động tuyên truyền, vừa để cổ động cho đường lối dân chủ tư sản, vừa để gây ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.
8. Mâu thuẫn giữa ba tổ chức cộng sản (ra đời năm 1929) về đường lối và tổ chức ngày càng sâu sắc.
9. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng do Trần Phú soạn thảo.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Trình bày hoàn cảnh lịch sử , nội dung, ý nghĩa và nguyên nhân thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam ngày 6/1/1930
Câu trả lời của bạn
1. Hoàn cảnh :
– Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời năm 1929 hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, làm phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ chia rẽ lớn.
– Nguyễn Ái Quốc được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phân liệt thành hai đảng cộng sản, liền rời khỏi Xiêm, sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản.
2. Nội dung hội nghị :
Với cương vị là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ai Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất đảng ở Cửu Long (Hương Cảng) từ ngày 6/1/1930.
– Nguyễn Ái Quốc phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng lẻ và nêu chương trình hội nghị..
– Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành đảng cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của đảng do Nguyễn Ai Quốc soạn thảo (Cương lĩnh chính trị dầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam).
– Ngày 08/02/1930, các đại biểu về nước. Ban chấp hành Trung ương lâm thời của đảng thành lập gồm 7 ủy viên do Trịnh đình Cửu đứng đầu.
– Ngày 24/02/1930, đông Dương cộng sản Liên đoàn được kết nạp vào đảng cộng sản Việt Nam. Sau này, đại hội toàn quốc lần thứ III của đảng Lao động Việt Nam quyết định lấy ngày 3/2/1930 làm ngày kỉ niệm thành lập đảng.
3. Ý nghĩa của Hội nghị :
Hội nghị có ý nghĩa như một đại hội thành lập đảng, thông qua đường lối Cách mạng (tuy còn sơ lược).
4. Nguyên nhân thành công của hội nghị :
Giữa các đại biểu các tổ chức không có mâu thuẩn về ý thức hệ, đều có xu hướng vô sản, đều tuân theo điều lệ của quốc tế Cộng sản. đáp ứng đúng nhu cầu thực tiễn của Cách mạng lúc đó.
Trình bày nội dung cơ bản của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đầu năm 1930 và cho biết vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam
Câu trả lời của bạn
1. Nội dung của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt :
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập đảng thông qua là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm chủ yếu của Cương lĩnh chính trị đầu tiên:
Chiến lược cách mạng: tiến hành “ tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ cách mạng: đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến, tư sản phản cách mạng, làm cho nuớc Việt Nam độc lập tự do, lập chính phủ công, nông, binh và quân đội công nông; tịch thu sản nghiệp của đế quốc và phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.
Lực lượng cách mạng: công nông, tiểu tư sản, trí thức, lợi dụng hoặc turng lập phú nông, địa chủ, tư sản. Cách mạng phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
Lãnh đạo cách mạng: đảng cộng sản Việt Nam: đội tiền phong của giai cấp vô sản.
Tuy còn vắn tắt, song đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn
đề dân tộc và giai cấp. độc lập, tự do là tư tưởng chủ yếu của cương lĩnh.
2. Tại sao nói : đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam ?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với tổ chức thống nhất đã vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn : làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vạch ra phương hướng cách mạng đúng đắn : sử dụng bạo lực của quần chúng theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, Việt Nam có nhiều đồng minh mới và cũng góp phần mình vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Phân tích ý nghĩa lịch sử của sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930
Câu trả lời của bạn
Phân tích những bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh.
Câu trả lời của bạn
1.Nguyên nhân bùng nổ phong trào cách mạng 1930-1931. -Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho nền kinh tế nước ta tiêu điều, xơ xác đời sống nhân dân lao động hết sức cơ cực nhất là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. -Do chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. -ĐCS Việt Nam ra đời ®Çu n¨m 1930 với đường lối cách mạng đúng đắn đã kịp thời lãnh đạo phong trào. 2.Chủ trương của Đảng. a.Nhận định kẻ thù: Đế quốc Pháp và địa chủ phong kiến. b.Nhiệm vụ:Chống đế quốc giành độc lập dân tộc chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày. c.Hình thức tập hợp lực lượng: Bước đầu thực hiện liên minh công nông. d.Hình thức đấu tranh: Sử dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu như mít tinh, biểu tình, bãi công, biểu tình có vũ trang, hoạt động bí mật. 3.Diễn biến của phong trào cách mạng 1930-1931. Chia làm hai thời kì a.Thời kì từ tháng 2 đến tháng 5/1930. Phong trào diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc. -2/1930:3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (Nam Bộ ) bãi công đòi tăng lương giảm giờ làm. -4/1930: Công nhân nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy xi măng Hải Phòng bãi công. -Trong nửa đầu năm 30 cùng với phong trào của công nhân thì phong trào của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnhThái Bình, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh.Điểm mới của phong trào trong thời kì này là xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của Đảng xuất hiện ở nhiều địa phương. -Đặc biệt trong ngày quốc tế lao động1/5/1930 lần đầu tiên công nông và quần chúng khắp từ Bắc chí Nam đã biểu dương lực lượng của mình thông qua các cuộc mít tinh, biểu tình. Sau ngày 1/5 phong trào tiếp tục dâng cao. b.Thời kì từ tháng 5 đến tháng 10/ 1930. Phong trào tiếp tục phát triển trên qui mô cả nước nhưng đỉnh cao là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. -Ngày 1/5/1930 Công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy(Nghệ An) cùng hàng vạn nông dân các vùng phụ cận thị xã Vinh biểu tình gương cao cờ đỏ búa liềm đòi tăng lương giảm giờ làm. -Ngày 1/8/1930 Phong trào phát triển lên một bước mới: Công nhân khu công nghiệp Vinh-Bến thủy tổng bãi công, báo hiệu thời kì đấu tranh quyết liệt đã đến….. -Đỉnh cao của phong trào cách mạng là cuộc biểu tình ngày 12/9/1930 của 2 vạn nông dân ở Hưng Nguyên (Nghệ An) biểu tình.Thực dân Pháp đàn áp làm 217 người chết;126 người bị thương làm cho nhân dân vô cùng căm phẩn. Trong suốt th¸ng 9 và tháng 10 nông dân ở các huyện Thanh Chương, Diễn Châu (Nghệ An),Hương Sơn (Hà Tĩnh) đã khởi nghĩa vũ trang, công nhân khu công nghiệp Vinh-Bến thủy tiếp tục bãi công làm cho phong trào trở nên hết sức quyết liệt. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng chính quyền địch ở nhiều địa phương bị tan rã. Ở đó các ban chấp hành nông hội đã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống chính trị , xã hội theo kiểu các xô viết. Lần đầu tiên nhân dân ta thực sự nắm chính quyền ở địa phương. 4.Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm a.Ý nghĩa lịch sử: -Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng Việtt Nam, đã giáng một đòn quyết liệt đầu tiên vào bè lũ đế quốc và phong kiến tay sai. -Qua thực tiển phong trào cho thấy dưới sự lãnh đạo của Đảng thì giai cấp công nhân, nông dân đoàn kết với các tầng lớp nhân dân khác có khả năng lật đổ nền thống trị của đế quốc và phong kiến tay sai. -Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị cho sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này. b.Bài học kinh nghiệm. Phong trào để lại nhiều bài học kinh nghiệm: -Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng. -Bài học về xây dựng khối liên minh công nông. -Bài học về sử dụng bạo lực cách mang của quần chúng để giành chính quyền. -Bài học về xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. Chính vì những lẽ trên, phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô- Viết Nghệ-Tĩnh là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng tám 1945. |
Chứng minh rằng phong trào cáh mạng 1930-131 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh diễn ra với quy mô rộng khắp, mang tính chất cách mạng triệt để và sử dụng hình thức đấu tranh quyết liệt ? Phong trào này đã để lại những bài học kinh nghiệm gì cho cách mang tháng Tám sau này ?
Câu trả lời của bạn
* Quy mô rộng khắp :
- Phong trào đã phát triển trên quy mô cả nước kéo dài suốt gần 2 năm (từ đầu năm 1930 đến cuối năm 1931)
- Phong trào đã thu hút được sự tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là quần chúng công - nông, với hàng trăm, cuộc đấu tranh lớn nhỏ, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 5.000 công nhanvaf nông dân Vinh - Bến Thủy vào ngày 1/5/1930, cuộc biểu tình của hơn 2 vạn nông dân Thanh Chương ngày 1/9/1930 và cuộc biểu tình tuần hành của 6 vạn nông dân huyện Hưng Nguyên ngày 12/9/1930.
* Tính cách mạng triệt để :
- Phong trào đã nhằm vào hai kẻ thù cơ bản của nhân dân ta là bọn đế quốc và phong kiến tay sai.
- Tại một số nơi thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, hệ thống chính quyền địch bị tan rã từng mảnh, bọn quan lại và cường hào bỏ trốn, chính quyền công, nông, binh thành lập dưới hình thức Xô Viết
* Sử dụng hình thức đấu tranh quyết liệt :
- Phong trào sử dụng hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, từ mít tinh biểu tình đến đốt huyện đường, phá nhà lao, kết hợp biểu tình thị uy với hoạt động nửa vũ trang để tiến công địch.
- Trong tháng 9 và tháng 10/1930, phong trào đã sử dụng hình thức vũ trang khởi ngĩa cướp chính quyền thành lập chính quyền cách mạng.
* Bài học kinh nghiệm :
- Xây dựng khối liên minh công nông
- Chuẩn bị lực lượng cách mạng
- Khởi nghĩa từng phần trong khởi nghĩa vũ trang
- Giành chính quyền cách mạng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Trình bày và nhận xét chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng được đề ra tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1930), Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (10/1930) và Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ( 5/1941) ?
Câu trả lời của bạn
* Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên :
- Xác định lực lượng cách mạng là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức; còn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc tập trung.
- Nhận xét :
+ Hội nghĩ đã thấy rõ thái độ chính trị và khả năng cách mạng của mỗi giai cấp trong xã hội Việt Nan thuộc địa, xác định đúng vai trò, vị trí của từng giai cấp tầng lớp.
+ Phát huy sức mạnh dân tộc, phân hóa và cô lập kẻ thù để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
* Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng cộng sản Đông Dương với bản Luận Cương chính trị tháng 10/1930
- Xác định động lực của cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân
- Nhận xét :
+ Đã xác định được động lực cách mạng, nhưng không đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và phong kiến.
+ Đây là điểm khác với Cương lĩnh chính trị đầu tiên và cũng là hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
* Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương :
- Chủ trương thành lập Mựt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc, nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp, giai cấp và cá nhân yêu nước.
- Nhận xét :
+ Chủ trương trên đã huy động đến mức cao nhất lực lượng toàn dân tộc thực hiện nhiệm vụ số một là giải phòng dân tộc, giành độc lập, tự do.
+ Khắc phục hạn chế của Luận Cương chính trị 10/1930 và khẳng định chủ trương đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, góp phần trực tiếp đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công.
Nêu nguyên nhân xảy ra và cho biết tại sao nói phong trào cách mạng 1930-1931 mang tính chất cách mạng triệt để, quy mô rộng lớn và hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt ?
Câu trả lời của bạn
- Nguyên nhân :
+ Tác động của khủng hoảng kinh tế ( 1929-1933)
+ Thực dân Pháp đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Yên Bái
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh.
* Phong trào cách mạng 1930-1931 mang tính cách mạng triệt để, quy mô rộng lớn và hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt
- Phong trào mang tính cách mạng triệt để : Vì đã nhằm trúng 2 kẻ thù đế quốc và phong kiến, đoạn tuyệt với chủ nghĩa cải lương tư sản. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng.
- Phong trào có quy mô rộng lớn : Vì đã thu hút hàng chục vạn người tham gia trong phạm vi cả nước, kéo dài trong thời gian gần 2 năm. Lực lượng chủ yếu là công nhân và nông dân...
- Phong trào có hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt : Vì diễn ra dưới nhiều hình thức như bãi công của công nhân, đấu tranh của nông dân, bãi khóa của học sinh, bãi thi của tiểu thương, mít tinh biểu tình của các tầng lớp khác...Phong trào sử dụng các hình thức quyết liệt như phá nhà lao, đốt huyện đường, dùng bạo lực cách mạng đập tan chính quyền địch...
Trình bày nội dung, ý nghĩa của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam ngày 6/1/1930 ?
Câu trả lời của bạn
* Nội dung :
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp từ ngày 6/1/1930 tại Cửu Long do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
- Hội nghị nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng,... do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
* Ý nghĩa :
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của một Đại hội thành lập Đảng
So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo với Luận cương tháng 10- 1930 do Trần Phú soạn thảo để thấy được sự đúng đắn sáng tạo của văn kiện trước và những điểm còn hạn chế của văn kiện sau ?
Câu trả lời của bạn
Nội dung so sánh | Bản Cương lĩnh Chính trị đầu tiên | Bản Luận cương tháng 10-1930 |
Tính chất | Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản . | Trước tiên làm cách mạng tư sản dân quyền, sau khi hoàn thành tiến thẳng lên XHCN, bỏ qua giai đoạn TBCN . |
Nhiệm vụ | Đánh đổ đế quốc, phong kiến và tư sản phản cách mạng . | Đánh đổ đế quốc - phong kiến.là hai nhiệm vụ có quan hệ khắng khít |
Mục tiêu | - Làm cho Việt Nam độc lập, thành lập chính phủ và quân đội công nông . - Tịch thu sản nghiệp của đế quốc và tư sản phản cách mạng chia cho dân nghèo | - Làm cho Đông Dương độc lập, thành lập chính phủ và quân đội công nông, tiến hành cách mạng ruộng đất triệt để |
Lực lượng | Công nông, tiểu tư sản, trí thức ; lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản. | Giai cấp công nhân và nông dân |
Lãnh đạo | Đảng Cộng sản Việt Nam | Đảng Cộng sản Đông Dương |
Quan hệ quốc tế | Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. | Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới |
So sánh | Ưu điểm - Là cương lĩnh cách mạng GPDT đầu tiên của Đảng với tư tưởng cốt lõi là độc lập tự do, thể hiện sự sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với CNXH * Ý nghĩa : - Là đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo đầu tiên của Đảng ta. - Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về về đường lối và giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam, soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi tới thành công. | Hạn chế - Chưa thấy được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không đưa vấn đề GPDT lên hàng đầu - Đánh giá không đúng khả năng tham gia cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc và trung tiểu đại chủ. - Những nhược điểm này dần dần được Đảng ta khắc phục qua quá trình đấu tranh thực tiễn của cách mạng . |
Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào 1930 - 1931 ?
Câu trả lời của bạn
* Ý nghĩa lịch sử :
- Khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Đông Dương.
- Từ trong phong trào khối liên minh công nông hình thành, công nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng.
- Phong trào cách mạng 1930-1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản
* Bài học kinh nghiệm:
- Để lại bài học quý về công tác tư tưởng, xây dựng khối liên minh công nông, về giành và giữ chình quyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
- Là cuộc tập dượt đầu tiên cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
So sánh chủ trương, sách lược cách mạng của Đảng, hình thức đấu tranh giữa thời kì 1936 - 1939 với thời kì 1930 - 1931 ?
Câu trả lời của bạn
Nội dung so sánh | Thời kì 1930 – 1931 | Thời kì 1936 - 1939 |
Kẻ thù | Đế quốc và phong kiến | Thực dân Pháp phản động và tay sai |
Mục tiêu-nhiệm vụ | Độc lập dân tộc và người cày có ruộng. | Tự do dân chủ, cơm áo, hoà bình |
Tập hợp lực lượng | Liên minh công nông | Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tập hợp mọi lực lượng dân chủ, yêu nước và tiến bộ. |
Hình thức đấu tranh | Bạo lực cách mạng, vũ trang, bí mật, bất hợp pháp: bãi công, biểu tình, đấu tranh vũ trang, lập Xô Viết Nghệ Tĩnh. | Đấu tranh chính trị hoà bình, công khai, hợp pháp: phong trào Đông Dương đại hội, đấu tranh nghị trường, báo chí, bãi công, bãi thị, bãi khoá…. |
Lực lượng tham gia | Chủ yếu là công nông | Đông đảo các tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chính trị. |
Địa bàn | Nông thôn và các trung tâm công nghiệp | Chủ yếu ở thành thị |
So với thời kì 1930-1931 những chủ trương sách lược cách mạng của đảng trong thời kì 1936-1939 có gì khác ? Vì sao?
Câu trả lời của bạn
a.Nhận định kẻ thù:
-1930-1931. đế quốc và phong kiến
-1936-1939. Bọn phản động thuộc địa Pháp và tay sai của chúng
b.Nhiệm vụ :
-1930-1931: Chống đế quốc giành độc lập dân tộc, chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
-1936-1939:Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, bọn phản động thuộc địa đòi những quyền tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình
c.Hình thức tập hợp lực lượng(Mặt trận)
-1930-1931: Bước đầu thực hiện liên minh công nông (bước đầu ở Nghệ An và Hà tĩnh)
-1936-1939:Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế đông Dương sau đổi thành mặt trận dân chủ đông Dương.
d.Hình thức và phương pháp đấu tranh
-1930-1931: đấu tranh chính trị , từ bãi công chuyển sang biểu tình quần chúng hoặc biểu tình có vũ trang, hoạt động bí mật.
-1936-1939: Sử dụng các hình thức đấu tranh hòa bình công khai hợp pháp…..
e.Lực lượng đấu tranh
-1930-1931: Lực lượng chủ yếu là công nông
-1936-1939: Lực lượng đấu tranh đông đảo không phân biệt thành phần giai cấp
Như vậy so với thời kì 1930-1931chủ trương, sách lược,và hình thức đấu tranh trong thời kì này đều có nét khác. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do hoàn cảnh lịch sử thay đổi so với trước. đặc biệt, Mặt trận nhân Pháp đẫ ban hành các chính sách về tự do dân chủ và ân xá tù chính trị cho các nước thuộc địa. Lợi dụng cơ hội này đảng ta chủ trương đấu tranh đòi các quyền dân sinh dân chủ.
Trình bày phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ-Tĩnh ?
Câu trả lời của bạn
1.Nguyên nhân bùng nổ phong trào cách mạng 1930-1931.
-Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 làm cho nền kinh tế nước ta tiêu điều, xơ xác đời sống nhân dân lao động hết sức cơ cực nhất là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
-Do chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
-Đảng cộng sản Việt Nam ra đời 3/2/1930 với đường lối cách mạng đúng đắn đã kịp thời lãnh đạo phong trào.
Từ ba nguyên nhân trên dẫn tới sự bùng nổ của phong trào cách mạng 1930- 1931ở nước ta. Trong ba nguyên nhân đó thì nguyên nhân đảng ra đời và lãnh đạo là nguyên nhân cơ bản và quyết định nhất
2.Chủ trương của đảng.
a.Nhận định kẻ thù: đế quốc Pháp và địa chủ phong kiến.
b.Nhiệm vụ:Chống đế quốc giành độc lập dân tộc chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
c. Hình thức tập hợp lực lượng: Bước đầu thực hiện liên minh công nông. d.Hình thức đấu tranh: Sử dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng là chủ yếu như mít tinh, biểu tình, bãi công, biểu tình có vũ trang, hoạt động bí mật.
3.Diễn biến của phong trào cách mạng 1930-1931. Chia làm hai thời kì
a.Thời kì từ tháng 2 đến tháng 5/1930. Phong trào diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc
-2/1930:3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (Nam Bộ ) bãi công đòi tăng lương giảm giờ làm.
-4/1930: Công nhân nhà máy sợi Nam định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy xi măng Hải Phòng bãi công.
-Trong nửa đầu năm 30 cùng với phong trào của công nhân thì phong trào của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnhThái Bình, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh.điểm mới của phong trào trong thời kì này là xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của đảng xuất hiện ở nhiều địa phương.
-Đặc biệt trong ngày quốc tế lao động1/5/1930 lần đầu tiên công nông và quần chúng khắp từ Bắc chí Nam đã biểu dương lực lượng của mình thông qua các cuộc mít tinh, biểu tình. Sau ngày 1/5 phong trào tiếp tục dâng cao.
b.Thời kì từ tháng 5 đến tháng 10/ 1930. Phong trào tiếp tục phát triển trên qui mô cả nước nhưng đỉnh cao là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
- Ngày 1/5/1930 (nhân ngày quóc tế lao động).Công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy(Nghệ An) cùng hàng vạn nông dân các vùng phụ cận thị xã Vinh biểu tình gương cao cờ đỏ búa liềm đòi tăng lương giảm giờ làm.
– Ngày 1/8/1930 (nhân ngày quốc tế chống chiến tranh) Phong trào phát triển lên một bước mới: Công nhân khu công nghiệp Vinh-Bến thủy tổng bãi công, báo hiệu thời kì đấu tranh quyết liệt đã đến…..
- Đỉnh cao của phong trào cách mạng là cuộc biểu tình ngày 12/9/ 1930 của 2 vạn nông dân ở Hưng Nguyên (Nghệ An) biểu tình.Thực dân Pháp đàn áp làm 217 người chết;126 người bị thương làm cho nhân dân vô cùng căm phẩn. Trong suốt thang 9 và tháng 10 nông dân ở các huyện Thanh Chương, Diễn Châu (Nghệ An),Hương Sơn (Hà Tĩnh) đã khởi nghĩa vũ trang, công nhân khu công nghiệp Vinh-Bến thủy tiếp tục bãi công lần thứ hai làm cho phong trào trở nên hết sức quyết liệt. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng chính quyền địch ở nhiều địa phương bị tan rã. Ở đó các ban chấp hành nông hội đã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống chính trị , xã hội theo kiểu các xô viết. Lần đầu tiên nhân dân ta thực sự nắm chính quyền ở địa phương.
4.Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
a.Ý nghĩa lịch sử:
-Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đã giáng một đòn quyết liệt đầu tiên vào bè lũ đế quốc và phong kiến tay sai.
-Qua thực tiển phong trào cho thấy dưới sự lãnh đạo của đảng thì giai cấp công nhân, nông dân đoàn kết với các tầng lớp nhân dân khác có khả năng lật đổ nền thống trị của đế quốc và phong kiến tay sai.
-Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của đảng, chuẩn bị cho sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám sau này.
b.Bài học kinh nghiệm. Phong trào để lại nhiều bài học kinh nghiệm:
-Bài học về vai trò lãnh đạo của đảng.
-Bài học về xây dựng khối liên minh công nông.
-Bài học về sử dụng bạo lực cách mang của quần chúng để giành chính quyền.
-Bài học về xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. Chính vì những lẽ trên, phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô- Viết Nghệ-Tĩnh là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng tám 1945. Tham khảo. Xô Viết Nghệ Tỉnh là hình thức sơ khai của chính quyền công nông ở nước ta.Chính quyền của dân do dân vì dân
Xô Viết Nghệ Tỉnh là Chính quyền của dân do dân vì dân:
Vì Xô Viết Nghệ Tĩnh đã đem lại nhiềi lợi ích căn bản cho nhân dân.
a.Về kinh tế: Chia lại ruộng đất cho nông dân, giảm tô, xóa nợ, bỏ các thứ thuế vô lý, tổ chức sản xuất.
b.Chính trị: Chính quyền do nhân dân quản lý, thực hiện các quyền tự do dân chủ tự do hội họp, tự do tham gia các hoạt động đoàn thể…
c.Xã hội: Phát động phong trào đời sống văn hóa mới, bài trừ mê tín dị đoan, xóa bỏ các tục lệ lạc hậu, dạy chử quốc ngữ….
d.Quân sự: Mỗi làng đều có đội tự vệ vũ trang
Xô Viết Nghệ Tỉnh là hình thức nhà nước sơ khai. :
Vì Xô Viết Nghệ Tĩnh chưa lập được bộ máy chính quyền hoàn chỉnh, chưa giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất Nhận xét: Tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn (đến giữa năm 1931) nhưng chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của mình. đó là chính quyền công nông đầu tiên ở nước ta.Chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Những người đứng ra thành lập Việt Nam quốc dân đảng là ai ?
Câu trả lời của bạn
Đầu tháng 9/1945, Vũ Hồng Khanh, người đứng đầu Việt Quốc, sau nhiều lần bị Trung Quốc cản trở từ Vân Nam, Trung Quốc về đến Hà Nội ngày 20/10/1945. Trong khi ông vắng mặt, một nhóm đảng viên Việt Quốc sẵn sàng hợp tác với Việt Minh đã thành lập một ủy ban nhằm tái cơ cấu lại Việt Quốc. Vũ Hồng Khanh làm ngơ việc này. Nguyễn Tường Tam ở lại Trung Quốc trong suốt năm 1945 để vận động Trung Quốc và Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam nhưng không thành công. Vì vậy tài năng báo chí của Tam không được sử dụng
Chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập bằng cách nào ?
Câu trả lời của bạn
Chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập bằng cách là:Ban chấp hành nông thôn xã quản lý chính quyền dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng
Trong tháng 5 năm 1930, cả nước có bao nhiêu cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân ?
Câu trả lời của bạn
Trong tháng 5 năm 1930 , cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân
Câu trả lời của bạn
Phong trào Xô viết-Nghệ Tĩnh
Sự kiện đáng nhớ trong trang lịch sử vàng của đất nước việt nam là ngày 12 tháng 9 năm 1930 nổi dậy của nông dân Hưng Nguyên - Nam Đàn - Nghệ An
Tháng 5/1930 có bao nhiêu cuộc đấu tranh của công nhân ?
Câu trả lời của bạn
Chọn B. Có 16 cuộc đấu tranh.
Sự kiện lịch sử nào năm 1930 chứng tỏ " thời kỳ đấu tranh kịch liệt" đã đến ?
Câu trả lời của bạn
Sự kiện lịch sử năm 1930 chứng tỏ "thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến là:Cuộc bãi công của công nhân Vinh - Bến Thủy
Đóng góp nổi bật của nguyễn ái quốc đối với xách mạng Việt nam từ năm 1925 đến 1930 là gì
Câu trả lời của bạn
Gia nhập Quốc tế thứ 3 + Sáng lập ĐCSVN
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc và quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Tất Thành tại Hội nghị Versailles, Pháp
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là một sự kiện đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng CỘng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị được xây dựng ngay từ khi được thành lập (trong đó xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản) chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam – môt Đảng vừa mới được thành lập nhưng đã giương cao được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết tốt nhất tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để hoàn thành thắng lợi cuộc cách mang dân tộc dân chủ, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, con đường cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và đã làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, biết ơn và tin yêu Đảng, toàn thể đảng viên, cán bộ viên chức, sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh hôm nay không ngừng ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng bộ Nhà trường thành một tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể xây dựng Nhà trường thành một cơ sở giáo dục đại học phát triển, góp phần tích cực vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chung tay xây dựng quê hương, Đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, như sinh thời Bác Hồ hằng mong ước.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc và quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. 2. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin của Nguyễn Ái Quốc. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919,Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn, Người khẳng định “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng vô sản. Tóm lại với việc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến con đường cứu nước giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Người khẳng đinh:”Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Sự kiện này mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt nam trong suốt những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với lịch sử dân tộc. Câu 2 (2.0 điểm). Sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có những quyết định quan trọng nào? Ý nghĩa của những quyết định đó. Hướng dẫn trả lời 1. Những quyết định quan trọng của Nguyễn Ái Quốc sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước. - Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã có hai quyết định quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đó là: Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. - Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. 2. Ý nghĩa của những quyết định của Nguyễn Ái Quốc - Đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản và Người đã khẳng định con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản, ngoài ra không có con đường cách mạng nào khác. Sự kiện đó đã mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cho cách mạng Việt Nam. Câu 3 (3.0 điểm) Trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1929. Hướng dẫn trả lời Từ khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Thời kỳ ở Pháp (1920 -1923) - Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. - Tờ báo Người cùng khổ của Hội do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. - Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân’(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), -và cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp . Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên bí mật chuyển về Việt Nam. - Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác - Lênin. 2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) - Tháng 6/1923, Nguễn Aí Quốc đã rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí ’’Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. - Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông nhân ở các nước thuộc địa. - Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, đây cũng là bước chuẩn bị về chính trị tư tưởng của Người cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. 3.Thời kỳ ở Trung Quốc ( 1924 - 1927) - Sau một thời gian hoạt động ở Liên xô, Nguyễn ái Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) vào 11/1924. Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, cùng một số thanh niên từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện (6/1924). - Người đã tập hợp những người thanh niên tiêu biểu trong tổ chức Tâm Tâm xã để thành lập ra nhóm Cộng Sản đoàn (2/1925). - Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. - Hội đã ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận, ngày 21/6/1925 xuất bản số đầu tiên. - Tại Quảng Châu, Nguyễn ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên xô hay Trung Quốc, còn phần lớn được đưa về nước hoạt động. - Đầu năm 1927, các bài giảng của trong các khoá đào tạo được tập hợp và in thành cuốn "Đường cách mệnh". - Tác phẩm Đường cách mệnh và tờ báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về nước có tác dụng thức tỉnh tinh thần cách mạng và du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng nhân dân mở đường cho việc thành lập Đảng. - Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì đến 1929 lên tới 1700 hội viên. Cho đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929), Hội đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra Hội còn tổ chức được một số đoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ... - Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tổ chức phong trào "vô sản hoá" nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bà chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân của chính đảng vô sản nước ta: - Hội đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác – Lê nin về trong nước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. - Hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đưa phong trào công nhân phát triển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, phong trào yêu nước của các giai cấp phát triển, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Câu 4 (3.0 điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập nghiên cứu để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, hình thành lên những quan điểm chiến lược, sách lược về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua việc viết sách báo, các bài tham luận tại các hội nghị, đại hội, từng bước truyền bá về trong nước để trang bị lý luận cho nhân dân ta và làm cơ sở cho đường lối cách mạng của Đảng ta sau này. 1. Chuẩn bị về tư tưởng chính trị Trong thời gian ở Pháp, Người tham gia viết bài cho báo “:Nhân đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân” của Tổng liên đoàn lao động Pháp, báo “Người cùng khổ” của Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari và đặc biệt viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925. Thời gian ở Liên Xô, Người vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo “Sự thật” của Đảng cộng sản Liên Xô, tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế cộng sản. Thời gian ở Trung Quốc, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra tờ báo “Thanh Niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội và tuyên truyền cách mạng về trong nước. Năm 1927 trên cơ sở tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu đã được tập hợp lại và in thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” để trang bị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên. 2. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Tháng 2 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số hội viên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã để lập ra nhóm Cộng Sản đoàn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hóa” về trong nước, đưa cán bộ, hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và số lượng, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Tóm lại, với những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc, năm 1929 những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã được chuẩn bị, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/21930) đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Câu 5 (2.5điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Đầu năm 1930, trước yêu cầu của cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là đóng góp vĩ đại nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch sử dân tộc. 1. Hoàn cảnh: - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào năm 1929 là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất và trực tiếp tổ chức lãnh đạo những cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân khác cũng diễn ra sôi nổi mạnh mẽ kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng khắp trong cả nước. - Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. - Trước tình hình đó, Quốc tế cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc (với chức trách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới phong trào cách mạng ở Đông Dương) chịu trách nhiệm thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất. - Từ ngày 6/1 đến 8 - 2 - 1930, Hội nghị hợp nhất Đảng họp ở Cửu Long (Hương Cảng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản đảng 2. Nội dung: - Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng sản riêng rẽ và nêu rõ chương trình của Hội nghị. - Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. - Nhân dịp Đảng ra đời Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, anh chị em bị áp bức… - Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Ý nghĩa: - Hội nghị thành lập Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm vóc như một đại hội thành lập đảng vì đã sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. 2. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin của Nguyễn Ái Quốc. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919,Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn, Người khẳng định “muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng vô sản. Tóm lại với việc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến con đường cứu nước giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Người khẳng đinh:”Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Sự kiện này mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt nam trong suốt những năm cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Đây là công lao to lớn đầu tiên của Người đối với lịch sử dân tộc. Câu 2 (2.0 điểm). Sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có những quyết định quan trọng nào? Ý nghĩa của những quyết định đó. Hướng dẫn trả lời 1. Những quyết định quan trọng của Nguyễn Ái Quốc sau gần một thập kỉ ra đi tìm đường cứu nước. - Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong một gia đình trí thức nho học yêu nước. Sinh ra trong một gia đình yêu nước, trên quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên lại chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân sống lầm than nô lệ, chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ như: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1884 – 1913)…Nên Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Không tán thành với con đườn cứu nước của các bậc tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây tìm con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Sau một thời gian làm việc và tìm hiểu thực tế ở nhiều nước châu Á, Âu, Phi, Mĩ, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được những nhận thức bước đầu quan trọng về bạn, về thù: nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù.. Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người trở về Pháp để tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã có hai quyết định quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đó là: Tháng 7/1920, Người đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã giúp Nguyễ Ái Quốc khẳng định con đường giành độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam. - Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. 2. Ý nghĩa của những quyết định của Nguyễn Ái Quốc - Đánh dấu bước ngoặt trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản và Người đã khẳng định con đường cứu nước giải phóng dân tộc đúng đắn cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản, ngoài ra không có con đường cách mạng nào khác. Sự kiện đó đã mở đường cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cho cách mạng Việt Nam. Câu 3 (3.0 điểm) Trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1929. Hướng dẫn trả lời Từ khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Thời kỳ ở Pháp (1920 -1923) - Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. - Tờ báo Người cùng khổ của Hội do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. - Nguyễn ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân’(của Tổng Liên đoàn lao động Pháp), ....và cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp . Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên bí mật chuyển về Việt Nam. - Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác - Lênin. 2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) - Tháng 6/1923, Nguễn Aí Quốc đã rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn ái Quốc ở lại Liên xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí ’’Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. - Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Người đã trình bày quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông nhân ở các nước thuộc địa. - Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện lí luận cách mạng giải phóng dân tộc, đây cũng là bước chuẩn bị về chính trị tư tưởng của Người cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. 3.Thời kỳ ở Trung Quốc ( 1924 - 1927) - Sau một thời gian hoạt động ở Liên xô, Nguyễn ái Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) vào 11/1924. Tại đây, Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, cùng một số thanh niên từ trong nước sang theo tiếng gọi của tiếng bom Sa Diện (6/1924). - Người đã tập hợp những người thanh niên tiêu biểu trong tổ chức Tâm Tâm xã để thành lập ra nhóm Cộng Sản đoàn (2/1925). - Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. - Hội đã ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận, ngày 21/6/1925 xuất bản số đầu tiên. - Tại Quảng Châu, Nguyễn ái Quốc đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên xô hay Trung Quốc, còn phần lớn được đưa về nước hoạt động. - Đầu năm 1927, các bài giảng của trong các khoá đào tạo được tập hợp và in thành cuốn "Đường cách mệnh". - Tác phẩm Đường cách mệnh và tờ báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về nước có tác dụng thức tỉnh tinh thần cách mạng và du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng nhân dân mở đường cho việc thành lập Đảng. - Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì đến 1929 lên tới 1700 hội viên. Cho đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5/1929), Hội đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra Hội còn tổ chức được một số đoàn thể quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ... - Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tổ chức phong trào "vô sản hoá" nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bà chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân của chính đảng vô sản nước ta: - Hội đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác – Lê nin về trong nước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. - Hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đưa phong trào công nhân phát triển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, phong trào yêu nước của các giai cấp phát triển, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Câu 4 (3.0 điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập nghiên cứu để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, hình thành lên những quan điểm chiến lược, sách lược về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua việc viết sách báo, các bài tham luận tại các hội nghị, đại hội, từng bước truyền bá về trong nước để trang bị lý luận cho nhân dân ta và làm cơ sở cho đường lối cách mạng của Đảng ta sau này. 1. Chuẩn bị về tư tưởng chính trị Trong thời gian ở Pháp, Người tham gia viết bài cho báo “:Nhân đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân” của Tổng liên đoàn lao động Pháp, báo “Người cùng khổ” của Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari và đặc biệt viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925. Thời gian ở Liên Xô, Người vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo “Sự thật” của Đảng cộng sản Liên Xô, tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế cộng sản. Thời gian ở Trung Quốc, Người đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra tờ báo “Thanh Niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội và tuyên truyền cách mạng về trong nước. Năm 1927 trên cơ sở tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu đã được tập hợp lại và in thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” để trang bị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho các hội viên. 2. Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của Đảng. Tháng 2 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số hội viên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã để lập ra nhóm Cộng Sản đoàn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng lại, kịch liệt đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình. Cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hóa” về trong nước, đưa cán bộ, hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và số lượng, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Tóm lại, với những hoạt động trên của Nguyễn Ái Quốc, năm 1929 những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã được chuẩn bị, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/21930) đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Câu 5 (2.5điểm). Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hướng dẫn trả lời Đầu năm 1930, trước yêu cầu của cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 đã khẳng định lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là đóng góp vĩ đại nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch sử dân tộc. 1. Hoàn cảnh: - Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản vào năm 1929 là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất và trực tiếp tổ chức lãnh đạo những cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân khác cũng diễn ra sôi nổi mạnh mẽ kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ rộng khắp trong cả nước. - Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. - Trước tình hình đó, Quốc tế cộng sản đã giao cho Nguyễn Ái Quốc (với chức trách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới phong trào cách mạng ở Đông Dương) chịu trách nhiệm thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất. - Từ ngày 6/1 đến 8 - 2 - 1930, Hội nghị hợp nhất Đảng họp ở Cửu Long (Hương Cảng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam Cộng sản đảng 2. Nội dung: - Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng sản riêng rẽ và nêu rõ chương trình của Hội nghị. - Hội nghị đã thảo luận và nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. - Nhân dịp Đảng ra đời Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, anh chị em bị áp bức… - Ngày 24 - 2 - 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Ý nghĩa: - Hội nghị thành lập Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm vóc như một đại hội thành lập đảng vì đã sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đã giải quyết được cuộc khủng hoảng về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *