Theo ĐIỀU 69 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Trong các quyền ấy, quyền tự do ngôn luận là quyền thể hiện rõ quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện tính tích cực của công dân. Nắm vững quyền tự do ngôn luận sẽ sử dụng tốt quyền nói trên. Và để hiểu rõ bản chất và ý nghĩa của quyền tự do ngôn luận, chúng ta học bài hôm nay Bài 19: Quyền tự do ngôn luận
Mỗi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, song chúng ta cần sử dụng quyền tự do ngôn luận cho đúng pháp luật thể hiện đúng quyền bàn bạc, đóng góp ý kiến về các vấn đề của đất nước , xã hội. Có nhiều cách để chúng ta thực hiện quyền này của mình, nhà nước tạo mọi điều kiện để phát huy tối đa.
→ Công dân có quyền tự do ngôn luận nhưng trong khuôn khổ pháp luật, không lợi dụng tự do để phát biểu lung tung, vu khống, vu cáo người khác hoặc xuyên tạc sự thật, phá hoại, chống lại lợi ích nhà nước, nhân dân
→ Thông qua quyền tự do ngôn luận để phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của công dân, phê bình đóng góp ý kiến xây dựng tổ chức, cơ quan ,xây dựng đường lối chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.
Qua bài học này các em cần:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm GDCD 8 Bài 19 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Quyền tự do ngôn luận có quan hệ chặt chẽ và thường thể hiện thông qua quyền:
Quyền tự do ngôn luận được quy đinh trong:
Điền vào chỗ trống:
Nhà nước....... những thông tin làm tổn hại lợi ích quốc, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập GDCD 8 Bài 19để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Giải bài 1 trang 74 SBT GDCD 8
Giải bài 2 trang 75 SBT GDCD 8
Giải bài 3 trang 75 SBT GDCD 8
Giải bài 4 trang 75 SBT GDCD 8
Giải bài 5 trang 75 SBT GDCD 8
Giải bài 6 trang 75 SBT GDCD 8
Giải bài 7 trang 76 SBT GDCD 8
Giải bài 8 trang 76 SBT GDCD 8
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng GDCD DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
Quyền tự do ngôn luận có quan hệ chặt chẽ và thường thể hiện thông qua quyền:
Quyền tự do ngôn luận được quy đinh trong:
Điền vào chỗ trống:
Nhà nước....... những thông tin làm tổn hại lợi ích quốc, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Những việc làm nào sau đây cần bị phê phán:
Hành vi nào thể hiện đúng quyền tự do ngôn luận:
Quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vẫn đề chung của xã hội được gọi là ?
Biểu hiện việc thực hiện đúng quyền tự do ngôn luận là?
Biểu hiện việc thực hiện sai quyền tự do ngôn luận là?
Người bao nhiêu tuổi vi phạm quyền tự do ngôn luận phải chịu trách nhiệm hình sự?
Việc ông A sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tung tin đồn nhảm không đúng sự thật sẽ bị phạt như thế nào?
Trong các tình huống dưới đây, tình huống nào thể hiện quyền tự đo ngôn luận của công dân?
a) Góp ý trực tiếp với người có hành vi xâm phạm tài sản nhà nước, xâm phạm quyền sở hữu công đânễ
b) Viết bài đăng báo phản ánh việc làm thiếu trách nhiệm, gây lãng phí, gây thiệt hại đến tài sản nhà nước.
c) Làm đơn tố cáo với cơ quan quản lí về một cán bộ có biểu hiện tham nhũng.
d) Chất vấn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong các kì tiếp xúc cử tri.
Khi phương tiện thông tin đại chúng đăng các thông tin về dự thảo Luật Giáo dục, nhiều học sinh muốn phát biểu ý kiến, quan điểm của mình, nhưng các bạn còn ngại không biết học sinh có được phép góp ý, phát biểu không và thực hiện bằng cách nào.
Em hãy chỉ ra một phương án giúp các bạn.
Hiện nay trên đài phát thanh, truyền hình và một số báo có mở những chuyên mục để công dân tham gia đóng góp ý kiến, trình bày thắc mắc, phản ánh nguyện vọng của mình. Em hãy nêu tên một vài chuyên mục mà em biết.
Em hiểu thế nào là quyền tự do ngôn luận?
Pháp luật nước ta quy định như thế nào về quyền tự do ngôn luận của công dân?
Nhà nước có trách nhiệm gì trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân?
Ý kiến nào sau đây là đúng về quyền tự do ngôn luận?
A. Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân phê phán những việc làm sai trái của cơ quan nhà nước.
B. Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân tố cáo trước cơ quan nhà nước về những tệ nạn xã hội.
C. Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của đất nước, xã hội.
D. Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân được tự do nói lên suy nghĩ của mình ở mọi nơi, mọi lúc.
Những việc làm nào sau đây là thực hiện quyền tự do ngôn luận?
A. Góp ý với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
B. Phát biểu trong các buổi họp ở lớp, ở trường.
C. Con bày tỏ ý kiến với cha mẹ.
D. Góp ý với Ban giám hiệu nhà trường về các biện pháp xây dựng trường.
E. Góp ý với Chủ tịch uỷ ban nhân dân xã về việc làm sai trái của một số cán bộ trong xã.
G. Góp ý với bạn về giữ đúng nội quy học tập.
Trong cuộc họp lớp, H. phê phán T. Trong những lời phê phán ấy, có một số chi tiết không đúng sự thật. Thấy vậy, bạn lớp trưởng nhắc nhở:
- Chúng mình góp ý cho bạn thì không nên nói sai sự thật, chỉ mới nghe tin đồn thôi mà đã vội quy kết bạn mình là sai đấy.
Thấy thế, H. lập tức đứng dậy.
- Tôi có quyền tự do ngôn luận, tôi có thể nói gì cũng được; phát huy tinh thần dân chủ trong học sinh mà.
Câu hỏi:
1/ Cách hiểu về quyền tự do ngôn luận của bạn H. trong cuộc họp này có đúng không?
2/ Em hiểu thế nào là tự do ngôn luận trong các buổi họp lớp?
Trường em tổ chức lấy ý kiến góp ý của giáo viên và học sinh vào việc xây dựng trường lớp. Cô Hiệu trưởng yêu cầu mọi người cần phát huy quyền tự do ngôn luận của công dân để đóng góp ý kiến một cách có hiệu quả nhất. Nhiều học sinh băn khoăn: Liệu học sinh trung học cơ sở có quyền tự do ngôn luận hay không? Phải chăng chỉ những người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền này?
Câu hỏi:
Theo em, học sinh trung học cơ sở có quyền tự do ngôn luận không? Vì sao?
Hãy nêu cách thực hiện quyền tự do ngôn luận của học sinh trung học nói chung và của bản thân em nói riêng.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Hiểu được nội dung của quyền tự do ngôn luận?
Câu trả lời của bạn
Tự do ngôn luận và biểu đạt có một lịch sử lâu đời trước cả các văn kiện nhân quyền quốc tế của ngày nay. [4]Người ta cho rằng nguyên tắc dân chủ của người Athen cổ đại về tự do ngôn luận có thể đã xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 6 hoặc đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. [5] Các giá trị của nền Cộng hòa La Mã đã bao gồm quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. [6]
Các khái niệm về tự do ngôn luận cũng có thể được tìm thấy trong các tài liệu nhân quyền từ sớm.[4] Tuyên ngôn về các Quyền của Con người và của Công dân, được thông qua trong Cuộc cách mạng Pháp năm 1789, đặc biệt khẳng định quyền tự do ngôn luận như một quyền không thể thay đổi.[4] Tuyên ngôn quy định quyền tự do ngôn luận trong Điều 11, trong đó nêu rõ rằng:
Quyền tự do trao đổi ý kiến và quan điểm là một trong những điều quý giá nhất về quyền của con người. Mọi công dân có thể, theo đó, có quyền tự do phát biểu, viết và in ấn, nhưng sẽ chịu trách nhiệm về việc lạm dụng quyền tự do này theo luật định.[7]
Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, được thông qua vào năm 1948, tuyên bố rằng:
Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.[8]
Ngày nay, tự do ngôn luận, hoặc tự do biểu đạt, được công nhận trong luật nhân quyền của quốc tế và từng khu vực. Quyền này được quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, Điều 10 của Công ước châu Âu về Nhân quyền, Điều 13 của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền và Điều 9 của Hiến chương châu Phi về Quyền Con người và Quyền các Dân tộc.[9] Dựa trên lập luận của John Milton tự do ngôn luận được hiểu là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt, hoặc phổ biến, thông tin và ý kiến, mà còn là ba khía cạnh riêng biệt:
Các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và quốc gia cũng công nhận rằng tự do ngôn luận, cũng như tự do biểu đạt, bao gồm bất kỳ phương tiện biểu đạt nào, có thể bằng lời nói, bằng văn bản, in ấn, thông qua Internethoặc thông qua các hình thức nghệ thuật. Điều này có nghĩa là việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận như một quyền chính đáng không chỉbao gồm nội dung, mà còn cả phương tiện biểu đạt.[9]
Mối quan hệ với các quyền khác[sửa | sửa mã nguồn]
Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt có liên quan chặt chẽ với các quyền khác và có thể bị hạn chế khi xung đột với các quyền khác (xem các hạn chế về quyền tự do ngôn luận).[9] Quyền tự do biểu đạt cũng liên quan đến quyền được xét xử công bằng trong tố tụng tòa án vì điều này có thể giới hạn quyền truy cập tìm kiếm thông tin hoặc xác định cơ hội và các phương tiện để thể hiện quyền tự do biểu đạt trong thủ tục tố tụng của tòa án.[10] Theo nguyên tắc chung, quyền tự do biểu đạt không được hạn chế quyền riêng tư, cũng như danh dự và uy tín của người khác. Tuy nhiên hạn chế này được thu hẹp khi có các chỉ trích liên quan đến các nhân vật của công chúng.[10]
Quyền tự do biểu đạt có ý nghĩa quan trọng đối với truyền thông bởi vì nó đóng vai trò đặc biệt trong việc mang quyền tự do biểu đạt chung đến cho tất cả mọi người.[9] Tuy nhiên, tự do báo chí không nhất thiết hỗ trợ cho tự do ngôn luận. Judith Lichtenberg đã chỉ ra các tình huống trong đó tự do báo chí có thể hạn chế quyền tự do ngôn luận, ví dụ như trường hợp phương tiện truyền thông ngăn chặn thông tin hoặc đàn áp các ý kiến đa chiều vốn là một phần của tự do ngôn luận. Lichtenberg lập luận rằng tự do báo chí chỉ đơn giản là một dạng quyền sở hữu được tóm gọn trong nguyên tắc "không có tiền, không có tiếng nói".[11]
Vì sao phải phát huy quyền làm chủ của mình ?
Câu trả lời của bạn
Vì công dân có quyền được tự do,được sống.
+Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp như thông qua tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, đối thoại với lãnh đạo địa phương, thực hiện quyền được trưng cầu dân ý theo luật định, nghiên cứu để nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, huyện. Cần có cơ chế cụ thể, rõ ràng để nhân dân bày tỏ thẳng thắn ý kiến và phản biện đối với dự thảo, dự kiến, dự án, những quyết định lớn của Đảng, Nhà nước.
+Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức./.
Bản thân bạn thực hiện quyền tự do ngôn luận trường , lớp và ở nhà như thế nào??
Câu trả lời của bạn
Thực hiện quyền tự do ngôn luận trong nhà trường, lớp học bằng cách trực tiếp phát biểu ý kiến trong giờ học, thảo luận tại lớp, phát biểu trong giờ sinh hoạt lớp, đóng góp ý kiến với giáo viên, Ban Giám hiệu trường,... nhằm xây dựng trường học, môi trường giáo dục trở lên tốt hơn. Ngoài ra cũng có thể góp ý qua hòm thư góp ý của nhà trường.
- Gửi bài đăng báo, trong đó bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về những vấn đề trong cuộc sống để ủng hộ cái đúng, cái tốt, phê phán và phản đối cái sai, cái xấu.
- Đóng góp ý kiến khi được trưng cầu ý kiến về những vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân, những vấn đề mình quan tâm cho các đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân.
- Ở trường lớp : + phát biểu ý kiến , xây dựng bài trong giờ học nhưng không được phát biểu trái với nội dung của bài học .
+ Nói chuyện với thầy cô giáo thì lễ phép
+ Nói chuyện với bạn bè : không nói tục ; nói bậy ; không xúc phạm đến danh dự ,nhân phẩm của các bạn cũng như tất cả mọi người .
- Ở nhà :
+ lễ phép với cha mẹ
+ không nói ngôn bừa bãi mang tính xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của người khác .
Đưa ra 3 tình huống về việc thể hiện quyền ngôn luận
Câu trả lời của bạn
Có quyền tham gia báo chí
Tham gia tự do tôn giáo
Thích hoặc không thích các thông tin.
-có quyền viết các báo chí
-chia sẻ các tôn giáo
-tiếp nhận các thông tin báo chí
ngôn la j luận la j
Câu trả lời của bạn
Đáp án:Tự do ngôn luận là nguyên tắc củng cố cho quyền tự do của một cá nhân hoặc cộng đồng trong việc biểu đạt quan điểm và ý kiến của họ mà không sợ bị trả đũa, kiểm duyệt hoặc xử phạt. Thuật ngữ "tự do biểu đạt" đôi khi cũng được sử dụng đồng nghĩa nhưng có bao gồm cả hành động tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt bất kỳ thông tin hoặc ý kiến nào bằng mọi phương tiện truyền thông.
Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của đất nước, xã hội.
Nêu ý nghĩa các câu sau
a. Ăn ko ns có.
b. Ném đá giấu tay.
c. Ns có sách, mách có chứng.
d. Vạ bởi miệng ra, bệnh bởi miệng vào.
Câu trả lời của bạn
A.Nói cho đúng,đừng nói sai
a. 'Ăn k ns có' nghĩa là những lời nói bịa đặt, vu khống nhằm ns xấu, hãm hại người khác.
b.'Ném đá giấu tay' nói đến những người làm điều xấu, điều ác mà giấu mặt, cố tỏ ra không liên quan gì đến hậu quả đã gây ra.
c.'Nói có sách, mách có chứng' nghĩa là nói điều gì đó xác thực, có chứng cứ rõ ràng, có thể kiểm chứng được, không nói vu vơ kiểu ăn ốc nói mò, không thêu dệt, không nói kiểu tung tin thất thiệt, bịa đặt dựng chuyện, vu oan giá hoạ để bóp méo, xuyên tạc sự thật hay đổ lỗi cho người khác.
Câu 1: Thế nào là quyền tự do ngôn luận? Là học sinh lớp 8 em có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận bằng cách nào?
Câu 2: Hiến pháp là gì? Từ khi thành lập đén nay Nhà nước ta đã trải qua mấy bản hiến pháp, là những bản nào? Mỗi công dân có trách nhiệm như thế nào đối với hiếp pháp nước CHXHCNVN?
Câu trả lời của bạn
1: Quyền tự do ngôn luận là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của đất nước, xã hội
2: Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất trong hệ thống pháp luật VN. Mọi văn bản pháp luật khác đều được xây dựng, ban hành trên cơ sở các quy định của hiến pháp, ko được trái với hiến pháp
Nhà nước ta đã ban hành 5 bản hiến pháp:
- HP 1946
- HP 1959
- HP 1980
- HP 1992
- HP 2013
QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN: Quyền được tham gia bàn bạc,đóng góp ý kiến về những công việc chung của đất nước của xã hội
QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA NHỮNG VIỆC LÀM NHƯ:
-Công dân được cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật
-Tự do báo chí
-Sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở, trên các phương tiện thông tin đại chúng.
-Kiến nghị với đại biểu quốc hội, đại biểu HĐND
-Góp ý vào dự thảo luật
-...
có nhận xét gì về việc giới trẻ sử dụng mạng xã hội hiện nay
Câu trả lời của bạn
giới trẻ hiện tại sử dụng mạng xã hội quá nhiều,nói tục,chửi thề.
Giới trẻ hiện nay phụ thuộc vào mạng xã hội quá nhiều, không lo học hành mà chỉ biết chơi những trò chơi dẫn đến tình trạng xấu như bị cận thị, những bệnh thường mắc phải như bệnh trầm cảm,...
Tick mình nheeee
Các hình thức thể hiện quyền tự do ngôn luận của công dân là gì .
Kíu với
Câu trả lời của bạn
Do đó, quyền tự do ngôn luận và biểu đạt có thể không được công nhận là quyền tuyệt đối và những hạn chế chung về tự do ngôn luận liên quan đến hành động phỉ báng, vu khống, sự tục tĩu, khiêu dâm, xúi giục, kích động, ngôn từ gây hấn, thông tin bí mật, vi phạm bản quyền, bí mật thương mại, nhãn dán thực phẩm, thỏa thuận bảo mật thông tin, quyền riêng tư, quyền được lãng quên, an ninh công cộng, và khai man. Các biện minh cho việc này bao gồm nguyên tắc gây hại, được đề xuất bởi John Stuart Mill trong tác phẩm Bàn về Tự do (On Liberty), trong đó có nêu ra rằng: "mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào của một cộng đồng văn minh, ngược lại ý chí của anh ta, là nhằm ngăn chặn sự tổn hại cho người khác." [3]
– Công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở (tổ dân phố lớp..) trên các phương tiện thông tin đại chúng ; Qua quyền tự do báo chí ; Kiến nghị với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong các dịp tiếp xúc với cử tri, hoặc góp ý kiến vào các dự thảo cương lĩnh, dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng...
2, Pháp luật quy định công dân đc sử dụng quyền tự do ngôn luận như thế nào ?
4, Để sử dụng hiệu quả quyền tự do ngôn luận ,công dân phải làm gì
Câu trả lời của bạn
Nói tóm lại, đã là công dân VN, sống trên đất VN thì phải tuân thủ Luật pháp VN, đó là nguyên tắc cơ bản & bắt buộc. Tất cả các nước khác trên thế giới cũng đều như vậy thôi. Thực hiện quyền tự do ngôn luận cũng phải trong một khuôn khổ nhất định nào đó mà Luật pháp cho phép. Chứ không phải tự do ngôn luận là muốn nói gì thì nói, bất chấp luân lý, đạo đức ; Muốn chưởi ai thì chưởi, muốn vu khống bịa đặt cho ai thì vu khống bịa đặt ; Xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ chế độ, Nhà nước .....Trong cuộc sống bình thường (không đề cập đến vấn đề Luật Pháp) cái gì cũng có giá của nó & có một giới hạn nhất định nào đó, nếu chúng ta cố ý vượt qua giới hạn cho phép thì sẽ xẩy ra bao nhiêu điều đáng tiếc mà chúng ta không thể lường trước được.
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Chào tạm biệt.
Một số quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận
Câu trả lời của bạn
Khung pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Trong đó, quy định rõ quyền, nghĩa vụ và việc hạn chế quyền này của công dân trong trường hợp cụ thể, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người; tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin nói riêng. Quyền và nghĩa vụ công dân trong thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin không chỉ thống nhất, mà còn là điều kiện, tiền đề cho nhau. Công dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin thì phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, Nhà nước, các quyền và lợi ích của người khác.
Mối quan hệ giữa quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin với nghĩa vụ công dân. Trong tất cả các văn kiện pháp luật của quốc tế và Việt Nam, khái niệm “quyền” luôn bao gồm: quyền và nghĩa vụ. Trong đó, tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948) và được thể chế trong “Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” (1966) đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người hưởng thụ quyền tự do ngôn luận, báo chí. Theo đó, người dân có quyền tự do ngôn luận, quyền được sử dụng các phương tiện báo chí, thông tin, mạng internet, các trang mạng xã hội không trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người sử dụng quyền này có nghĩa vụphải tuân thủ quy định của pháp luật và chấp nhận những hạn chế quyền. Việc thực hiện những quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt và việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội.
Với Luật Báo chí 2016 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017), việc khẳng định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí đã được xây dựng thành điều luật cụ thể, đó là: “Điều 1. Phạm vi Điều chỉnh: Luật này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí”. Đây là một điểm mới, một bước tiến quan trọng để luật hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí; từ đó xác lập các nội dung luật pháp tương ứng nhằm vừa tạo điều kiện, vừa bảo đảm để quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí được tổ chức, quản lý một cách dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu của tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.
Điểm mới và bước tiến trên đây chính là cụ thể hóa một nội dung quan trọng của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 28-11-2013 tại Kỳ họp thứ 6, được khẳng định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Với tính cách “luật cơ bản” của quốc gia, Hiến pháp là cơ sở để xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết, các văn bản thuộc hệ thống pháp luật Nhà nước. Như vậy, sự ra đời Luật Báo chí 2016 (cũng như các Luật Báo chí ban hành trước đó) đều dựa trên một nội dung quan trọng của Hiến pháp. Nội dung này hoàn toàn tương thích với các điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt Nam tham gia ký kết. Như: Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền Liên hợp quốc (Tuyên ngôn) khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ những ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có biên giới”, đồng thời khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn cũng khẳng định: “Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận, tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”; hoặc khoản 2 Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (Công ước) khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”, đồng thời khoản 3 Điều 19 Công ước cũng khẳng định: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có các bổn phận, trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng các quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý”.
Như vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cùng Tuyên ngôn, Công ước đều khẳng định quyền tự do ngôn luận của công dân, đồng thời thống nhất nguyên tắc coi thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân phải do “pháp luật quy định”, “phải tuân thủ những hạn chế do luật định”, “có thể bị giới hạn bởi pháp luật”. Vì thế tự do ngôn luận là một quyền hiến định, do Hiến pháp đặt ra và không thể thay đổi. Trong lĩnh vực báo chí, khẳng định quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí là một mặt của vấn đề, mặt khác là phải xây dựng, ban hành các điều luật bảo đảm những quyền này được thực hiện một cách dân chủ, phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển xã hội, có tác động tích cực đến sự phát triển của con người. Chương II Luật Báo chí năm 2016 đưa ra những quy định cụ thể. Nếu Điều 10 quy định công dân có quyền tự do báo chí, với nội dung chủ yếu: sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in, phát hành báo in, thì Điều 11 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận trên báo chí, thể hiện qua nội dung chủ yếu: phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác. Và Điều 12 đề cập trách nhiệm của cơ quan báo chí, với nội dung chủ yếu: đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh, tác phẩm báo chí khác của công dân phù hợp với tôn chỉ, mục đích...; trường hợp không đăng, phát phải trả lời, nêu rõ lý do khi có yêu cầu; trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Đồng thời Điều 13 quy định trách nhiệm của Nhà nước với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân qua nội dung chủ yếu: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện các quyền này và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Cùng với việc mở rộng đối tượng được phép thành lập cơ quan báo chí, đưa ra quy định mới về liên kết trong hoạt động báo chí, với các quy định về quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, Luật Báo chí năm 2016 thật sự là bước tiến rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam trong khi vừa bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong xã hội, vừa hoàn thiện hệ thống luật pháp để bảo đảm các quyền này. Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận nói chung, quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí nói riêng, không phải là các quyền không có giới hạn, mà như đã trình bày ở phần trên, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam và các văn bản liên quan của Liên hợp quốc đều đặt các quyền này trong khuôn khổ pháp luật, và bị giới hạn trong các nguyên tắc không được gây hại, không được xúc phạm, không được xung đột với các quyền khác của Nhà nước, của công dân,... Thí dụ, trong khi thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí nói riêng, công dân phải tuân thủ Điều 15 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, trong đó khoản 2 khẳng định: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” và khoản 4 khẳng định: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Và đó là cơ sở để Điều 9 Luật Báo chí năm 2016 có quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động báo chí để hạn chế các hành vi lạm quyền của báo chí, sử dụng báo chí đăng tải nội dung xấu độc, tiêu cực, làm phương hại đến Nhà nước, nhân dân, tổ chức xã hội, lịch sử dân tộc, chủ quyền của đất nước, quan hệ quốc tế, tín ngưỡng - tôn giáo, quyền trẻ em, danh dự và uy tín của công dân,...
Từ các nội dung trên, có thể nói Luật Báo chí năm 2016 đã tạo khung pháp lý rộng nhưng nghiêm khắc, bảo hộ mạnh mẽ bằng các định chế cần và đủ để công dân thực hiện quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí; để các cơ quan báo chí và nhà báo có thể tự do tác nghiệp trong khuôn khổ luật định... Đây là một phương diện quan trọng thể hiện tính chất dân chủ, công bằng, văn minh trong tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng là một bằng chứng chứng minh hệ thống pháp luật ở Việt Nam đã và đang ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với trình độ phát triển của thế giới hiện đại. Đồng thời đây cũng là cơ sở để bác bỏ luận điệu mà các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn thường sử dụng để vu cáo, vu khống, bịa đặt về vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam.
Tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí thuộc các quyền cơ bản của con người trong một xã hội phát triển. Song thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí như thế nào lại là vấn đề cần đề cập một cách cụ thể, căn cứ vào sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi quốc gia và hệ thống luật pháp của quốc gia ấy, cùng với các tiêu chí của nền văn hóa mà trực tiếp là đạo đức. Nên dù thực hiện các quyền này, trong khuôn khổ pháp luật, để phù hợp với truyền thống văn hóa, phục vụ lợi ích của đất nước, của dân tộc, của cộng đồng, báo chí không thể lợi dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí được quan niệm một cách cực đoan mà xâm phạm tới quyền và lợi ích của mọi tổ chức, cá nhân, của đất nước. Đó là những vấn đề tất yếu mà chỉ từ nhận thức đầy đủ, nghiêm túc thì mỗi công dân, mỗi cơ quan báo chí, mỗi người làm báo mới có thể sử dụng quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí một cách thiết thực, hiệu quả, có ý nghĩa tích cực với xã hội và con người, qua đó thể hiện tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật”.
Một số quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận :
Bao gồm : quyền được cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật , tự do báo chí ; sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở ; trên các phương tiện , thông tin đại chúng ; kiến nghị với đại biểu quốc hội , đại biểu hội đồng nhân dân , góp ý vào các dự thảo , cương lĩnh , chiến lược ; dự thảo văn bản luật , bộ luật quan trọng ,..
Sử dụng quyền tự do ngôn luận phải tuân theo quy định của pháp luật để phát huy quyền làm chủ của công dân , góp phần xây dựng nhà nước , quản lí xã hội .
Nêu những quan điểm về quyền tự do ngôn luận?
Câu trả lời của bạn
Bản thân tự do ngôn luận được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ. Các quy phạm về việc hạn chế quyền tự do ngôn luận có nghĩa là một cuộc tranh luận công khai không thể bị triệt tiêu hoàn toàn ngay cả trong trường hợp khẩn cấp.[10] Một trong những người ủng hộ nổi trội nhất về mối liên hệ giữa tự do ngôn luận và dân chủ chính là Alexander Meiklejohn. Ông lập luận rằng khái niệm về dân chủ là khái niệm tự quản của nhân dân. Để một hệ thống như vậy có thể hoạt động được, một cử tri cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin. Để có thể được trang bị các kiến thức đầy đủ, luồng thông tin và ý kiến không được ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Theo Meiklejohn, nền dân chủ sẽ không đúng với lý tưởng chủ đạo của nó nếu những người cầm quyền có thể thao túng cử tri bằng cách kìm hãm thông tin và đàn áp các ý kiến chỉ trích. Meiklejohn thừa nhận rằng mong muốn thao túng ý kiến có thể xuất phát từ động cơ hướng đến các lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, ông lập luận rằng bằng cách lựa chọn phương thức thao túng, tự bản thân nó đã trái lại với lý tưởng dân chủ.[12]
Eric Barendt cho rằng biện luận về quyền tự do ngôn luận dựa trên nền tảng dân chủ này "có lẽ là lý thuyết về tự do ngôn luận hấp dẫn nhất và hiển nhiên là hợp thời nhất trong các nền dân chủ Tây phương cận đại".[13] Thomas I. Emerson đã củng cố thêm cho biện luận này khi ông lập luận rằng tự do ngôn luận giúp mang đến cân bằng giữa sự ổn định và sự thay đổi xã hội. Tự do ngôn luận có tác dụng như một cái "van an toàn" để xả hơi hạ nhiệt khi mọi người bắt đầu có xu hướng chuyển biến thành một cuộc cách mạng. Ông lập luận rằng "Nguyên tắc thảo luận mở là một phương pháp hướng đến một cộng đồng với khả năng thích nghi tốt hơn và đồng thời ổn định hơn, giúp duy trì sự cân bằng mong manh giữa vấn đề chia rẽ tất yếu và sự đồng thuận thiết yếu." Emerson tiếp tục kiên định rằng "Các phe đối lập có vai trò như một chức năng quan trọng của xã hội để bù đắp hoặc cải thiện tình trạng suy đồi không tránh khỏi của chế độ quan liêu."[14]
Nghiên cứu được thực hiện bởi dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu tại Ngân hàng Thế giới, cho thấy tự do ngôn luận, và quy trình trách nhiệm giải trình, có tác động đáng kể đến chất lượng quản trị của một quốc gia. "Tiếng nói và Trách nhiệm Giải trình" của một quốc gia, được định nghĩa là "mức độ công dân của một quốc gia có thể tham gia lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí" là một trong sáu khía cạnh quản trị mà dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu dùng để đo lường cho hơn 200 quốc gia.[15] Trong bối cảnh này, điều quan trọng là các cơ quan phát triển phải tạo cơ sở hỗ trợ hiệu quả cho báo chí tự do ở các nước đang phát triển.[16]
Richard Moon đưa ra một lập luận rằng giá trị của tự do ngôn luận và tự do biểu đạt nằm ở các hoạt động tương tác xã hội. Moon viết rằng "bằng cách giao tiếp, một cá nhân sẽ xây dựng các mối quan hệ và liên kết với những người khác, như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hội thánh và những người đồng hương. Bằng cách tham gia thảo luận với những người khác, một cá nhân sẽ góp phần phát triển kiến thức cũng như hướng về cộng đồng."[17]
t
ự do ngôn luận là nguyên tắc củng cố cho quyền tự do của một cá nhân hoặc cộng đồng trong việc biểu đạt quan điểm và ý kiến của họ mà không sợ bị trả đũa, kiểm duyệt hoặc xử phạt. Thuật ngữ "tự do biểu đạt" đôi khi cũng được sử dụng đồng nghĩa nhưng có bao gồm cả hành động tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt bất kỳ thông tin hoặc ý kiến nào bằng mọi phương tiện truyền thông.
Tự do ngôn luận được công nhận là quyền con người theo điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và được công nhận trong luật nhân quyền quốc tế tại Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Điều 19 của UDHR quy định rằng "ai cũng có quyền giữ quan điểm mà không can thiệp" và "ai cũng có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và ý kiến các loại, không kể biên giới quốc gia, bất kể bằng lời nói, bằng văn bản hay in ấn, dưới hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác tùy theo sự lựa chọn của họ". Điều 19 trong ICCPR sau đó cải thiện điều này thông qua chỉ ra rằng việc thực hiện các quyền này mang theo "nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt" và "theo đó phải tuân theo các hạn chế nhất định" khi cần thiết "để tôn trọng quyền hoặc danh dự của những người khác" hoặc "để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, hoặc sức khỏe hay đạo đức cộng đồng".[2]
Các câu ca dao tục ngữ nói về quyền tự do ngôn luận
Câu trả lời của bạn
Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng dễ nghe: Láu lỉnh, giỏi bao biện
Nói phải củ cải cũng nghe: Nói phải, đúng lý thì ai cũng chấp nhận.
Nói như rót vào tai: Nói khéo và hay, dễ nghe, dễ tiếp thu
Nói toạc móng heo: Nói thẳng, không quanh co úp mở gì cả
Nói khoác gặp thời: Gặp may nên nói những điều không có thật để khoe khoang lại đúng sự thật
Nói ngọt lọt đến xương: Ăn nói dịu dàng, ngọt ngào thì người nghe dễ thấm
Nói như đinh đóng cột: Nói một cách chắc chắn, khẳng định không sợ hớ, kiên quyết không thay đổi.
Nói đúng như gãi vào chỗ ngứa: Nói đúng thì người nghe thỏa mãn
Tự do biểu đạt.
Tự do thông tin.
Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng dễ nghe: Láu lỉnh, giỏi bao biện
Nói phải củ cải cũng nghe: Nói phải, đúng lý thì ai cũng chấp nhận.
Nói như rót vào tai: Nói khéo và hay, dễ nghe, dễ tiếp thu
Nói toạc móng heo: Nói thẳng, không quanh co úp mở gì cả
Nói khoác gặp thời: Gặp may nên nói những điều không có thật để khoe khoang lại đúng sự thật
Nói ngọt lọt đến xương: Ăn nói dịu dàng, ngọt ngào thì người nghe dễ thấm
Nói như đinh đóng cột: Nói một cách chắc chắn, khẳng định không sợ hớ, kiên quyết không thay đổi.
Nói đúng như gãi vào chỗ ngứa: Nói đúng thì người nghe thỏa mãn
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
"Lời nói gió bay."
"Cái lưỡi không xương,nhiều đường lắt léo"
- Để sử dụng hiệu quả quyền tự do ngôn luận em cần phải làm gì?
Câu trả lời của bạn
Thực hiện đúng quy định pháp luật.
Để sử dụng hiệu quả quyền tự do ngôn luận cần phải : Tuân theo quy định của pháp luật thì mới phát huy quyền làm chủ của công dân , góp phần xậy dựng nhà nước và quản lí xã hội .
Trách nhiệm của công dân khi tham gia quyền tự do ngôn luận
Câu trả lời của bạn
Quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin với nghĩa vụ công dân
Pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người; tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin nói riêng. Quyền và nghĩa vụ công dân trong thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin không chỉ thống nhất, mà còn là điều kiện, tiền đề cho nhau. Công dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin thì phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, Nhà nước, các quyền và lợi ích của người khác.
1. Mối quan hệ giữa quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin với nghĩa vụ công dân. Trong tất cả các văn kiện pháp luật của quốc tế và Việt Nam, khái niệm “quyền” luôn bao gồm: quyền và nghĩa vụ. Trong đó, tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948) và được thể chế trong “Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” (1966) đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người hưởng thụ quyền tự do ngôn luận, báo chí. Theo đó, người dân có quyền tự do ngôn luận, quyền được sử dụng các phương tiện báo chí, thông tin, mạng internet, các trang mạng xã hội không trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người sử dụng quyền này có nghĩa vụphải tuân thủ quy định của pháp luật và chấp nhận những hạn chế quyền. Việc thực hiện những quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt và việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội.
Ở Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”1 đã được quy định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí (2016), Luật Tiếp cận thông tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-07-2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng,… và thực thi nghiêm túc, tạo không khí dân chủ trong xã hội2. Điều đó khẳng định và thể chế hóa quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí, v.v. Quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định rộng rãi hơn; đó không chỉ là một quyền thụ động do cơ quan nhà nước công khai thông tin theo nhận thức của mình, mà còn là quyền chủ động, được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng. Trên không gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, v.v.
Hội nghị triển khai Luật Báo chí 2016 khu vực các tỉnh phía Bắc.
Ảnh: nhandan.com.vn
Tuy nhiên, cũng như các quyền khác của con người, việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin phải do pháp luật quy định và trong khuôn khổ pháp luật; quy định rõ mối quan hệ giữa quyềnvới nghĩa vụ công dân; “không được xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”3. Vì thế, việc hạn chế các quyền này “theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”4 là một tất yếu. Những hành vi đăng, phát thông tin xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,... đều bị pháp luật xử lý. Đi liền với quyền tiếp cận thông tin là những quy định về phân loại những thông tin mà người dân được tiếp cận và những thông tin cơ quan, tổ chức không được phép cung cấp. Như vậy, “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”5; “nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt” hoặc “một số hạn chế nhất định” theo quy định của pháp luật Việt Nam hoàn toàn tương thích, phù hợp với luật quốc tế về quyền con người.
Hiện nay, quyền tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam không những được bảo đảm tốt mà còn là nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn được báo chí phanh phui, trước khi cơ quan chức năng phát hiện, như: vụ án Trịnh Xuân Thanh bắt nguồn từ bài báo “Xe tư gắn biển xanh” là một minh chứng. Những năm gần đây, các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc tham gia tích cực việc giám sát, phản biện đối với chính sách của Nhà nước. “Quyền phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới”, tham gia phản biện, giám sát của cá nhân, tổ chức được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng, khuyến khích. Tuy nhiên, vấn đề là phản biện ở đâu và động cơ phản biện như thế nào để đảm bảo tính khách quan; tránh hiện tượng “bôi đen” xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng gây tổn hại cho người dân, xã hội và đất nước.
2. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí. Những năm gần đây, xuất hiện cái gọi là “đấu tranh bất bạo động”, “bất tuân dân sự”, “hội chứng đám đông” của một số “người bất đồng chính kiến”, v.v. Những hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam của những “người bất đồng chính kiến” được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây “tăng âm”, phát tán với các bình luận bao che, cổ súy cho các hành vi phạm tội của họ với luận điệu lặp đi, lặp lại rằng: Việt Nam đang “bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet”; “vi phạm quyền con người”, v.v. Điều này hoàn toàn phi lý và ngang ngược. Vì, pháp luật Việt Nam không có quy định về cái mà báo chí phương Tây gọi là những “người bất đồng chính kiến”. Do đó, cũng không có quy định pháp luật nào về tội danh đối với “người bất đồng chính kiến”; không có quy định nào về những ý kiến “bất đồng” hay ý kiến khác với Nhà nước là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số người lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự chụp cho mình cái mác “người bất đồng chính kiến” để viết, phát tán những nội dung xuyên tạc sự thật, chống phá chế độ xã hội, Nhà nước trên mạng internet, v.v. Điển hình là: Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,… và họ đã nhận những bản án thích đáng về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (1999). Đó là minh chứng cho cái giá phải trả của việc lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Trước Tòa, họ biện luận rằng: họ chỉ là những “người bất đồng chính kiến”, đấu tranh hợp pháp, bằng “bất bạo động” và điều này hoàn toàn không vi phạm pháp luật(!) Thực tế chứng minh điều ngược lại. Những người này đã đăng tải nhiều video/clip trên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật; lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong xã hội. Nói cách khác, những “người bất đồng chính kiến” bị pháp luật xử lý là vì hành vi vi phạm pháp luật của chính họ.
Thực tế trên thế giới còn cho thấy, những vụ bạo động lật đổ chế độ thường diễn ra theo chuỗi: bắt đầu bằng đấu tranh “bất bạo động”, “bất tuân dân sự”, phát triển thành gây rối về an ninh trật tự dựa trên “hội chứng đám đông” và cuối cùng là gây bạo loạn lật đổ chính quyền từ cục bộ đến cả nước. Không loại trừ những kẻ cầm đầu kêu gọi lực lượng nước ngoài can thiệp. Đây là “kịch bản kinh điển” của những hoạt động lật đổ chế độ ở một số quốc gia trên thế giới trong những thập niên gần đây.
Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, nhất là quyền sử dụng mạng internet đã và đang bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng triệt để để vu cáo, bội nhọ vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá chế độ xã hội và Nhà nước ta. Những luận điệu cho rằng: “Chế độ Hà Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng sản Việt Nam “chiếm quyền” của dân, “đứng trên pháp luật”,… là một sự vu khống trắng trợn, hoàn toàn sai trái cả về thực tế và lý luận. Cũng như pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền tự do ngôn luận nói riêng luôn luôn có mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội. Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ghi rõ: mọi dân tộc đều có quyền tự quyết; xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Quy định này đã mặc nhiên thừa nhận các dân tộc có quyền tự quyết lựa chọn chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ công dân đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Hơn nữa, pháp luật luôn mang tính chính trị, lịch sử và đặc thù về văn hóa. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến định tại Điều 4, Hiến pháp (2013) và được Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ta, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ghi nhận. Đảng ta không chỉ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn có chức năng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Về thể chế chính trị của nước ta, Điều 2, Hiến pháp (2013), quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”6. Những thông tin, luận điệu cổ súy “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, lấy mô hình “tam quyền phận lập” phương Tây làm đối chứng để bác bỏ thể chế của Nhà nước ta không chỉ là một thủ đoạn bôi nhọ chế độ ta, mà còn ấu trĩ trong nhận thức về sự đa dạng các mô hình xã hội trên thế giới hiện nay.
Như vậy, cả về lý luận, pháp lý và thực tế cho thấy: pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người; tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin nói riêng. Quyền và nghĩa vụ công dân trong thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin không chỉ thống nhất, mà còn là điều kiện, tiền đề cho nhau. Công dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin thì phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, Nhà nước, các quyền và lợi ích của người khác. Ngược lại, các quyền này có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ nếu có hành vi vi phạm pháp luật.
Nghĩa vụ tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu đạt là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Quốc gia thành viên như một chỉnh thể. Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính phủ, dù ở cấp độ nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của Quốc gia thành viên. Các trách nhiệm đó cũng có thể phát sinh với một Quốc gia thành viên trong một số trường hợp nhất định liên quan đến các chủ thể có tư cách bán nhà nước. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các Quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nào của cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh hưởng xấu đến việc thụ hưởng các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt đến mức độ những quyền theo Công ước này dễ bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng của các cá nhân hoặc pháp nhân thuộc khu vực tư.
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật; công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở (tổ dân phố, trường lớp,...); trên các phương tiện thông tin đại chúng (qua quyền tự do báo chí); kiến nghị với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc tiếp xúc với cử tri; hoặc góp ý kiến vào các dự thảo cương lĩnh, chiến lược, dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng,...
Quyền tự do ngôn luận là gì? Em hay nêu lên những việc làm thể hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.
Câu trả lời của bạn
Tự do ngôn luận được công nhận là quyền con người theo điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và được công nhận trong luật nhân quyền quốc tế tại Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Điều 19 của UDHR quy định rằng "ai cũng có quyền giữ quan điểm mà không can thiệp" và "ai cũng có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và ý kiến các loại, không kể biên giới quốc gia, bất kể bằng lời nói, bằng văn bản hay in ấn, dưới hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác tùy theo sự lựa chọn của họ". Điều 19 trong ICCPR sau đó cải thiện điều này thông qua chỉ ra rằng việc thực hiện các quyền này mang theo "nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt" và "theo đó phải tuân theo các hạn chế nhất định" khi cần thiết "để tôn trọng quyền hoặc danh dự của những người khác" hoặc "để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, hoặc sức khỏe hay đạo đức cộng đồng".[2]
Quyền tự do ngôn luận là : Quyền của công dân được tham gia , bàn bạc , thảo luận , đóng góp ý kiến đối với những vấn đề chung của đất nước , xã hội .
Những việc làm thể hiện quyền tự do ngôn luận của công dân là : Có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận tùy theo sự hiểu biết của mình , bằng cách tích cực tham gia đóng góp ý kiến , trog các cuộc họp ở lớp , trường , khi thấy có vấn đề, có ý kiến muốn đề xuất ( nhất là những vấn đề có liên quan đến quyền trẻ em ) , có thể kiến nghị vs nhà trường hoặc gửi bài cho báo đài .
Câu 2 : Trình bày cách thức công dân thực hiện tự do ngôn luận . Nêu ý nghĩa
Câu trả lời của bạn
Bản thân tự do ngôn luận được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ. Các quy phạm về việc hạn chế quyền tự do ngôn luận có nghĩa là một cuộc tranh luận công khai không thể bị triệt tiêu hoàn toàn ngay cả trong trường hợp khẩn cấp.[10] Một trong những người ủng hộ nổi trội nhất về mối liên hệ giữa tự do ngôn luận và dân chủ chính là Alexander Meiklejohn. Ông lập luận rằng khái niệm về dân chủ là khái niệm tự quản của nhân dân. Để một hệ thống như vậy có thể hoạt động được, một cử tri cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin. Để có thể được trang bị các kiến thức đầy đủ, luồng thông tin và ý kiến không được ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Theo Meiklejohn, nền dân chủ sẽ không đúng với lý tưởng chủ đạo của nó nếu những người cầm quyền có thể thao túng cử tri bằng cách kìm hãm thông tin và đàn áp các ý kiến chỉ trích. Meiklejohn thừa nhận rằng mong muốn thao túng ý kiến có thể xuất phát từ động cơ hướng đến các lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, ông lập luận rằng bằng cách lựa chọn phương thức thao túng, tự bản thân nó đã trái lại với lý tưởng dân chủ.[12]
Eric Barendt cho rằng biện luận về quyền tự do ngôn luận dựa trên nền tảng dân chủ này "có lẽ là lý thuyết về tự do ngôn luận hấp dẫn nhất và hiển nhiên là hợp thời nhất trong các nền dân chủ Tây phương cận đại".[13] Thomas I. Emerson đã củng cố thêm cho biện luận này khi ông lập luận rằng tự do ngôn luận giúp mang đến cân bằng giữa sự ổn định và sự thay đổi xã hội. Tự do ngôn luận có tác dụng như một cái "van an toàn" để xả hơi hạ nhiệt khi mọi người bắt đầu có xu hướng chuyển biến thành một cuộc cách mạng. Ông lập luận rằng "Nguyên tắc thảo luận mở là một phương pháp hướng đến một cộng đồng với khả năng thích nghi tốt hơn và đồng thời ổn định hơn, giúp duy trì sự cân bằng mong manh giữa vấn đề chia rẽ tất yếu và sự đồng thuận thiết yếu." Emerson tiếp tục kiên định rằng "Các phe đối lập có vai trò như một chức năng quan trọng của xã hội để bù đắp hoặc cải thiện tình trạng suy đồi không tránh khỏi của chế độ quan liêu."[14]
Nghiên cứu được thực hiện bởi dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu tại Ngân hàng Thế giới, cho thấy tự do ngôn luận, và quy trình trách nhiệm giải trình, có tác động đáng kể đến chất lượng quản trị của một quốc gia. "Tiếng nói và Trách nhiệm Giải trình" của một quốc gia, được định nghĩa là "mức độ công dân của một quốc gia có thể tham gia lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí" là một trong sáu khía cạnh quản trị mà dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu dùng để đo lường cho hơn 200 quốc gia.[15] Trong bối cảnh này, điều quan trọng là các cơ quan phát triển phải tạo cơ sở hỗ trợ hiệu quả cho báo chí tự do ở các nước đang phát triển.[16]
Richard Moon đưa ra một lập luận rằng giá trị của tự do ngôn luận và tự do biểu đạt nằm ở các hoạt động tương tác xã hội. Moon viết rằng "bằng cách giao tiếp, một cá nhân sẽ xây dựng các mối quan hệ và liên kết với những người khác, như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hội thánh và những người đồng hương. Bằng cách tham gia thảo luận với những người khác, một cá nhân sẽ góp phần phát triển kiến thức cũng như hướng về cộng đồng."[17]
– Công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở (tổ dân phố lớp..) trên các phương tiện thông tin đại chúng ; Qua quyền tự do báo chí ; Kiến nghị với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong các dịp tiếp xúc với cử tri, hoặc góp ý kiến vào các dự thảo cương lĩnh, dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng...
Cho mình hỏi cái này với ạ! Những hành vi nào là vi phạm pháp luật khi sử dụng quyền tự do ngôn luận !
cảm ơn mọi người ạ <3
Câu trả lời của bạn
Các hành vi nghiêm cấm trong Luật An ninh mạng có vi phạm quyền con người, bóp nghẹt quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận không là vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Những dẫn chiếu từ Luật An ninh mạng cho thấy, Luật này không xâm phạm những quyền như vừa nêu.
Hành vi vi phạm pháp luật khi sử dụng quyền tự do ngôn luận là việc lợi dụng quyền này, đưa ra những phát ngôn mang tính thù ghét, hay có nội dung khiêu dâm... , bởi việc đó vi phạm "nguyên tắc gây hại" hay " nguyên tắc xúc phạm", có nghĩa là việc làm có xảy ra xung đột với một số quyền khác trên cơ sở sử dụng quyền tự do ngôn luận.
________Thế nhá ! _____________________________________________
nêu một số việc làm thể hiện quyền tự do ngôn luận không chính đáng?
Câu trả lời của bạn
Quyền tự do báo chí. Quyền được thông tin theo quy định của pháp luật. Có quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở. Kiến nghị với đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân... Sử dụng quyền tự do ngôn luận phải tuân theo quy định của pháp luật, để phát huy tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân.
Việc làm thể hiện quyền tự do ngôn luận không chính đáng là: Nhà báo đưa thông tin không xác thực khi nói đến việc gì đó, ...
Em sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở (tổ dân phố, trường lớp,...); trên các phương tiện thông tin đại chúng (qua quyền tự do báo chí); kiến nghị với Đại biểu quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong dịp tiếp xúc với cử tri; hoặc góp ý kiến vào các dự thảo cương lĩnh, chiến lược, dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng,...
Tuy nhiên sử dụng quyền tự do ngôn luận phải tuân theo quy định của pháp luật để phát huy tính tích cực và quyền làm chủ của công dân, góp phần xây dựng nhà nước, quản lý xã hội.
Công dân sử dụng quyền tự do ngôn luận như thế nào? Vì sao?
Câu trả lời của bạn
hop le
Đáp án:Công dân có quyền tự do ngôn luận. Nói và viết những gì mình thích nhưng không được ảnh hưởng đến những gì được Nhà nước bảo hộ. Chẳng hạn như xúc phạm nhân phẩm, bôi nhọ chế độ, vu oan giáng họa... nói chung tự do ngôn luận trong khuôn khổ đạo đức cho phép.
Vì Trong cuộc sống bình thường (không đề cập đến vấn đề Luật Pháp) cái gì cũng có giá của nó & có một giới hạn nhất định nào đó, nếu chúng ta cố ý vượt qua giới hạn cho phép thì sẽ xẩy ra bao nhiêu điều đáng tiếc mà chúng ta không thể lường trước được.
Nói tóm lại, đã là công dân VN, sống trên đất VN thì phải tuân thủ Luật pháp VN, đó là nguyên tắc cơ bản & bắt buộc. Tất cả các nước khác trên thế giới cũng đều như vậy thôi. Thực hiện quyền tự do ngôn luận cũng phải trong một khuôn khổ nhất định nào đó mà Luật pháp cho phép. Chứ không phải tự do ngôn luận là muốn nói gì thì nói, bất chấp luân lý, đạo đức ; Muốn chưởi ai thì chưởi, muốn vu khống bịa đặt cho ai thì vu khống bịa đặt ; Xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ chế độ, Nhà nước .....Trong cuộc sống bình thường (không đề cập đến vấn đề Luật Pháp) cái gì cũng có giá của nó & có một giới hạn nhất định nào đó, nếu chúng ta cố ý vượt qua giới hạn cho phép thì sẽ xẩy ra bao nhiêu điều đáng tiếc mà chúng ta không thể lường trước được.
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở trên các phương ... có hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước, xâm phạm quyền sở hữu công dân ... trách nhiệm như thế nào trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân
chỉ sử dụng quyền tự do ngôn luận với mục đích tốt, đúng đắn, không được kích động chính quyền, nhục mạ người khác vì sẽ vi phạm pháp luật (xâm phạm nhân phẩm của người khác,...)
Phải thật nghiêm chỉnh, tuyệt đối ko đc phép nói dối. Nếu ko sẽ có hình phạt thích đáng từ pháp luật.
Công dân được tham gia bàn bạc, thảo luạn, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của đất nước
Công dân có quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở trong các phương tiện, thông tin đại chúng.
Đây là ý kiến của mik, chúc bạn học tốt
Công dân có quyền tự do ngôn luậnmiễn là nói đúng sự thật tránh làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác
Thực hiện quyền tự do ngôn luận trong nhà trường, lớp học bằng cách trực tiếp phát biểu ý kiến trong giờ học, thảo luận tại lớp, phát biểu trong giờ sinh hoạt lớp, đóng góp ý kiến với giáo viên, Ban Giám hiệu trường,... nhằm xây dựng trường học, môi trường giáo dục trở lên tốt hơn. Ngoài ra cũng có thể góp ý qua hòm thư góp ý của nhà trường.
- Gửi bài đăng báo, trong đó bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về những vấn đề trong cuộc sống để ủng hộ cái đúng, cái tốt, phê phán và phản đối cái sai, cái xấu.
- Đóng góp ý kiến khi được trưng cầu ý kiến về những vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân, những vấn đề mình quan tâm cho các đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân.
- ....
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *