Đây là ảnh minh hoạ quảng cáo

  Đặt câu hỏi

Họ và tên

Tiêu đề câu hỏi

Nội dung câu hỏi

Lớp
Môn học
Bài học
img
From Apple
Ngữ Văn 11 27/08/2022
Giá trị hiện thực trong đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là gì?
Giá trị hiện thực trong đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là gì ?

Câu trả lời của bạn

img
Tạ Thị Mai Thúy
Ngữ Văn 11 27/08/2022
Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về phủ chúa Trịnh
Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về Phủ Chúa Trịnh

Câu trả lời của bạn

img
Chỉ với ạ Hi
Ngữ Văn 11 29/05/2022
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi

Hy vọng là một thứ rất tuyệt diệu, hi vọng hình cong xoắn, thỉnh thoảng nó khuất đi nhưng hiếm khi nó tan vỡ. Hi vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được. Hãy hi vọng! Hi vọng cho chúng ta có thể tiếp tục, cho chúng ta can đảm để tiến lên phía trước khi chúng ta tự nhủ là mình sắp bỏ cuộc. Hi vọng đặt nụ cười lên gương mặt chúng ta khi mà trái tim không chủ động được điều đó. Hi vọng đặt lên đôi chân chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta k nhìn thấy được. Hi vọng thúc giục chúng ta hành động khi tinh thần chúng ta không nhận biết được phương hướng nữa. Hi vọng là 1 điều kì diệu cần nuôi dưỡng và ấp ủ đổi lại nó làm cho chúng ta luôn sống động...

CÂU 1: Xác định ptbđ chính

CÂU 2: Tìm câu cầu khiến và nêu chúc năng của câu ấy trong đoạn văn sau:

Hãy hi vọng! Hi vọng cho chúng ta có thể tiếp tục, cho chúng ta can đảm để tiến lên phía trước khi chúng ta tự nhủ là mình sắp bỏ cuộc....

CÂU 3: Hi vọng là 1 điều kì diệu cần nuôi dưỡng và ấp ủ đổi lại nó làm cho chúng ta luôn sống động... em có đồng ý câu nói trên không vì sao?

CÂU 4: Từ đoạn văn trên em rút ra được bài học gì cho bản thân trong cuộc sống hiện nay?

Câu trả lời của bạn

img
Chỉ với ạ Hi
Ngữ Văn 11 29/05/2022
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dướ

Lãng phí thời gian là mất tuyệt đối. Thời gian là một dòng chảy thẳng, không bao giờ dừng lại và cũng không bao giờ quay lại. Mọi cơ hội, nếu bỏ qua là mất. Tuổi trẻ mà không làm được gì cho đời, cho bản thân thì nó vẫn xồng xộc đến tuổi già. Thời gian là một dòng chảy đều đặn, lạnh lùng, chẳng bao giờ chờ đợi sự chậm trễ. Hãy quý trọng thời gian, nhất là trong thời đại trí tuệ này; nền kinh tế tri thức đã và đang làm cho thời gian trở nên vô giá. Chưa đầy một giờ, công nghệ Nhật Bản đã có thể sản xuất một tấm thép, con tàu tốc hành của các nước phát triển, trong vài giờ đã có thể vượt qua được vài ngàn kilômét. Mọi biểu hiện đủng đỉnh, rềnh ràng đều trở nên lạc lõng trong xu thế toàn cầu hiện nay. Giá trị là cần thiết những chơi bời quá mức, để thời gian trôi qua vô vị là có tội với đời, với tương lai đất nước.

(Phong cách sống của người đời, nhà báo Trường Giang, theo nguồn Internet)

CÂU 1: Xác định ptbđ chính

CÂU 2: Cho câu:"Hãy quý trọng thời gian, nhất là trong thời đại trí tuệ này; nền kinh tế tri thức đã và đang làm cho thời gian trở nên vô giá." xét theo mục đích nói, câu văn trên thuộc kiểu câu gì? chức năng?

CÂU 3: Từ nội dung đoạn văn trên rút ra 2 bài học cho bản thân 

 

Câu trả lời của bạn

img
hà trang
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”

Câu trả lời của bạn

img
Anh Trần
15/04/2022

Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”. Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.

   Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.

   Cái tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy: quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam “thực bỡ ngỡ”, như một kẻ “lạc loài nơi đất khách”. “Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “nó mất dần vẻ bỡ ngỡ”, rồi được “vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương”, “nó tội nghiệp quá!”.

   Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thể giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?

Năm vừa rồi

Chàng cùng tôi

Nơi vùng giáp Mộ

Trong gian nhà cỏ

Tôi quay tơ,

Chàng ngâm thơ.

Vườn sau oanh giục giã,

Nhìn ra hoa đua nở,

Dừng tay tôi kêu chàng:

“Này, này! bạn! xuân sang.

Chàng nhìn xuân mặt hớn hở

Tôi nhìn chàng lòng vồn vã…

(“Xuân về” – Lưu Trọng Lư)

Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:

Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…

   Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: Lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Những bậc kì tài (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, “thảng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác” . Trong thơ cũ thường chỉ có chữ ta; các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chỉ chung nhiều người”.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

(Bà Huyện Thanh Quan)

Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng

Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác

Kể từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước

Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui

Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi

Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa

Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa

Mặc trời cho, ta chửa hỏi chi

Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…

(“Gặp xuân” – Tản Đà)

Cái tôi của thơ mới là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thơ mới. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa”,… – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:

Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,

Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.

Huy Cận

Trăng sáng, trang xa, trông rộng quá!

Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ

Xuân Diệu

   Cái tôi làm cho hồn thơ mới giàu bản sắc, đồng thời cũng làm cho thơ mới chứa đầy bi kịch. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú:

   “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

   Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào cái hồn của thơ mới:

   “Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.

   Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.

Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tấm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó:

   “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.

Đoạn cuối của bài tiểu luận “Một thời đại thi ca”, Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới “trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.

   Điệp ngữ “Chưa bao giờ như bây giờ…” cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.

   Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị “chững lại”. Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

   Bảy thập niên sau, đọc “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của “một thời đại thi ca”.

 
img
Nguyễn Thị Trang
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Điều cối lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ được nhắc đến trong Một thời đại trong thi ca là gì?

Câu trả lời của bạn

img
Anh Linh
15/04/2022

Điều cối lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn VN lúc bấy giờ.

- Tinh thần thơ mới là chữ “Tôi”.

+ Cái khác ở chữ “Tôi” và chữ “Ta” . Ngày trước là thời chữ “Ta”, bây giờ là thời chữ “Tôi”.

+ Chữ “Tôi” trước đây nếu có thì cũng phải ẩn mình sau chữ “Ta”. Chữ “Tôi” bây giờ là chữ “tôi” theo ý nghĩa tuyệt đối của nó.

img
Mai Vàng
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Ý nghĩa văn bản Một thời đại trong thi ca

Câu trả lời của bạn

img
Goc pho
15/04/2022

Ý nghĩa văn bản:

Nhận thức tinh tế, sâu sắc về tinh thần thơ mới, động lực thúc đẩy sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.

img
lê Phương
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Trong Một thời đại trong thi ca, đoạn văn Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi... cùng Huy Cận, khái quát vấn đề gì và khái quát như thế nào? Ấn tượng và cảm xúc của em khi đọc đoạn văn đó? Vì sao lại như vậy?

Câu trả lời của bạn

img
Ngoc Nga
15/04/2022

Đặc sắc của đoạn văn là ngắn gọn, cô đúc mà chính xác lại cụ thể, không chỉ chỉ ra nguyên nhân mà còn thấy cả tiến trình và báo trước kết quả của tinh thần thơ mới, nét riêng đặc sắc, độc đáo và tính bi kịch bế tắc của nó. Lời văn vừa sôi nổi với các từ ta (chúng ta - người đọc - nhà nghiên cứu phê bình) vừa đồng hành, đồng sáng tạo cùng từng nhà thơ mới tài hoa nhất.

img
sap sua
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Viết một đoạn văn hình dung hoàn cảnh và tâm trạng của Tố Hữu khi viết bài thơ Từ ấy

Câu trả lời của bạn

img
Vương Anh Tú
15/04/2022

 Một ngày đẹp trời cuối mùa hè năm 1938. Trời cao xanh, nắng vàng tươi rực rỡ chảy tràn trên xứ Huế, mảnh đất cố đô xưa. Trong một khu vườn xum xuê cây lá, nghe rõ tiếng xào xạc của gió và âm thanh ríu rít của bầy chim nhỏ trên ngọn cây cao, có ba người ngồi xúm lại với nhau trên bãi cỏ, dường như họ đang bàn bạc với nhau chuyệu gì rất hệ trọng. Hai người tầm thước, gương mặt cương nghị, rắn rỏi thay nhau giảng bài, lời lẽ mạch lạc, lôi cuốn (sau này Tố Hữu viết: Anh Lưu, anh Điểu dạy con đi - Dìu dắt con khi chưa biết gì. Anh Lưu anh Điểu là Phan Đăng Lưu và Nguyễn Chí Điểu, hai người cộng sản trung kiên, những người đầu tiên đã giác ngộ cách mạng cho Tố Hữu). Ngồi nghe chăm chú như nuốt lấy từng lời, là một chàng trai dáng vẻ thư sinh, đôi mắt sáng ngời. Tâm hồn chàng bây giờ như vườn cây kia rực rỡ ánh nắng, ríu rít tiếng chim, xanh tươi cây lá, ngào ngạt hương thơm, bởi lần đầu tiên chàng biết đến một lí tưởng, một lẽ sống đẹp đến thế. Trái tim chàng dạt dào rung động với những tình cảm mới. Chàng thấy mình đã trở thành một người thân thiết trong thế giới của những người khốn khổ mà hàng ngày chàng vẫn thường gặp. Chàng và họ sống trong tình thân ái chan hòa, cùng sát cánh bên nhau phấn đấu vì một ngày mai sáng tươi. Cái giây phút kì diệu ấy chàng sẽ mãi mãi ghi nhớ trong suốt cuộc dời.

img
khanh nguyen
Ngữ Văn 11 29/04/2022
Viết bài văn chứng minh câu nói trên thông qua bài Từ ấy Tố Hữu

Chế Lan Viên từng nói “Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Viết bài văn chứng minh câu nói trên thông qua bài Từ ấy Tố Hữu.

Câu trả lời của bạn

img
Nguyễn Vân
15/04/2022

Chế Lan Viên từng nói “Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu – một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập Đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cách mạng là “những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi” nhưng vào năm 1938, gặp Đảng là lúc tìm được ánh sáng. “Từ ấy” không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiêng liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy, trong hồn thi sĩ “bừng nắng hạ”. Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu.

Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, “nắng hạ” trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm “bừng” sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của “mặt trời chân lí” là ánh sáng của Đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh “vườn hoa lá”, “tiếng chim ca”,… mở ra cho người đọc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng.

Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng. Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết.

Việc sử dụng động từ “buộc” thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,… Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn “trang trải” với “khối đời”. Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự xuất hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” và đại từ “ta”, tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ, tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này.

Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên, có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của Đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

 
 
Chia sẻ