Mời các em học sinh tham khảo bài học này: Bài 8: Nước Mĩ một đất nước từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, kinh tế Mĩ phát triển nhảy vọt, đứng đầu thế giới, trở thành siêu cường. Với sự vượt trội về kinh tế, khoa học -kĩ thuật, hiện nay nước Mĩ đang giữ vai trò hàng đầu trong nền kinh tế chính trị thế giới và quan hệ quốc tế.
Qua bài học này các em cần nắm được các nội dung kiến thức cơ bản sau:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 9 Bài 8 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Dự trữ vàng của Mĩ so với toàn thế giới là:
Sản lượng nông nghiệp bằng 2 lần sản lượng của
Câu 3 - Câu 5: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 9 Bài 8để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận 1 trang 34 SGK Lịch sử 9 Bài 8
Bài tập Thảo luận 2 trang 34 SGK Lịch sử 9 Bài 8
Bài tập Thảo luận trang 35 SGK Lịch sử 9 Bài 8
Bài tập trang 35 SGK Lịch sử 9
Bài tập 1.1 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.2 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.3 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.4 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.5 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.6 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.7 trang 28 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 2 trang 30 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 3 trang 30 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 4 trang 31 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 5 trang 31 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 6 trang 31 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 7 trang 31 SBT Lịch Sử 9
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 9 DapAnHay
Dự trữ vàng của Mĩ so với toàn thế giới là:
Sản lượng nông nghiệp bằng 2 lần sản lượng của
Mĩ là nước khởi đầu
Đạt được thành tựu kì diệu nào?
Mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Mĩ là:
Những nguyên nhân nào làm cho địa vị kinh tế của Mĩ bị suy giảm?
Hãy nêu những thành tựu chủ yếu về khoa học - kĩ thuật của Mĩ.
Hãy trình bày những nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của Mĩ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vì sao nước Mĩ lại trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc?
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mĩ giàu lên nhanh chóng là do nguyên nhân chủ yếu sau:
A. Tập trung sản xuất và tập trung tư bản cao
B. Mĩ là nước đi đầu về khoa học - kĩ thuật và công nghệ
C. Không bị chiến tranh tàn phá, được yên ổn sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến.
D. Tài nguyên dồi dào, nhân công rẻ mạt.
Đặc điểm của nền kinh tế Mĩ sau năm 1945 đến nay là
A. Luôn thua kém các nước Anh, Pháp, Tây Đức về sản lượng công nghiệp
B. Luôn đứng đầu thế giới về kinh tế tài chính
C. Suy thoái và khủng hoảng liên miên
D. Luôn giữ ưu thế tuyệt đối trên thế giới
Nền kinh tế Mĩ không ngừng tăng trưởng là nhờ
A. Tìm ra nhiều dầu mỏ
B. Ứng dụng nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật
C. Xâm chiếm các nước đang phát triển để vơ vét tài nguyên
D. Nhân dân Mĩ tích cực lao động sản xuất.
Trong công cuộc chinh phục vũ trụ, Mĩ là nước đầu tiên đưa con người lên mặt trăng vào năm
A. 1949
B. 1957
C. 1961
D. 1969
Chính sách đối nội và đối ngoại của Mĩ nhằm phục vụ lợi ích của
A. Toàn thể nhân dân lao động Mĩ
B. Nước Mĩ
C. Các cấp đoàn tư bản kếch sù của Mĩ
D. Những người có thu nhập cao và trung bình ở Mĩ
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam diễn ra trong những năm
A. 1945-1975
B. 1969-1972
C. 1969-1975
D. 1970-1975
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “Chiến lược toàn cầu” nhằm
A. Chống phá các nước XHCN, đẩy lùi phong trào đấu tranh dân tộc và thiết lập sự thống trị trên toàn thế giới.
B. Thúc đẩy nền kinh tế của toàn thế giới phát triển
C. Ứng dụng thành tựu khoa học – kĩ thuật của Mĩ trên toàn thế giới
D. Thiết lập các khối quân sự và xây dựng căn cứ quân sự ở khắp mọi nơi
Hãy điền chữ Đ (đúng) hoặc chữ S (sai) vào ô ☐ trước câu trả lời sau
1. ☐ Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã vươn lên chiến vị trí tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản.
2. ☐ Kinh tế Mĩ không ổn định do vấp phải nhiều cuộc suy thoái, khủng hoảng.
3. ☐ Sự chệnh lệnh giữa giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội, nhất là ở các nhóm dân cư - tầng lớp lao động bậc thấp, là nguồn gốc gây lên sự không ổn định về kinh tế ở Mĩ.
4. ☐ Sau khi khôi phục kinh tế, các nước Tây Âu và Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ, vượt Mĩ về kinh tế.
5. ☐ Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục từ năm 1991 đến năm 2000 và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học – kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ ráo riết chuẩn bị nhiều chính sách, biện phát để xác lập trật tự thế giới “Đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế.
Hãy nối thông tin ở cột A với cột B sao cho phù hợp về cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật của Mĩ
Cột A:
1. Các công cụ sản xuất mới
2. Các nguồn năng lượng mới
3. Những vật liệu mới
4. Chinh phục vũ trụ
5. Sản xuất các loại vũ khí hiện đại
Cột B:
A. Tên lửa, máy bay tàng hình, vũ khí hạt nhân
B. Lần đầu tiên đưa con người lên Mặt Trăng (7-1969)
C. Nguyên tử, năng lượng mặt trời, sức gió
D. Sáng chế máy tính, máy tự động hệ thống máy tự động.
E. Vật liệu tổng hợp, chất dẻo.
Những ý dưới đây, ý nào thuộc chính sách đối nội, ý nào thuộc chính sách đối ngoại của Mĩ
A. Mĩ ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng Sản Mĩ hoạt động
B. Thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc
C. Mĩ đề ra "chiến lược toàn cầu" nhằm chống phá các nước XHCN
D. Chống phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước.
E. Mĩ tiến hành "viện trợ" để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ.
G. Lập các khối quân sự, gây ra nhiều cuộc chiến tranh xâm lược.
Hãy nêu tình hình kinh tế nước Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai?
Vì sao nền kinh tế Mĩ lâm vào tình trạng suy thoái tương đối ?
Nước Mĩ đã đạt được những thành tựu nổi bật như thế nào trong linh vực khoa học - kĩ thuật từ năm 1945 đến nay?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
câu 1: vì sao nước mĩ lại trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới sau chiến tranh thế giới thứ 2?
câu 2: theo em bài học rút ra được từ sự phát triển thần kì của nhật bản đối với sự phát triển kinh tế của nước ta là gì?
CÁC BẠN GIÚP MÌNH MÌNH CẢM ƠN NHÌU NHA!!!!!!!!!!!!!!111
Câu trả lời của bạn
Câu 1
Nước Mĩ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương che chở, không bị chiến tranh tàn phá. Nước Mĩ giàu lên trong chiến tranh do được yên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản.
nêu chisnh sách đối ngoại nổi bật của Mĩ sau chiến tranh ? Liên hệ chính sách của Mĩ đối với Việt Nam ?
HELP ME !!!!!!!!! MÌNH ĐANG CẦN GẤP
Câu trả lời của bạn
Từ sau chiến tranh , chính sách đối ngoại của MĨ đã có nhưng nét nổi bật:
mĩ gặp những khó khăn gì khi thi hành chính sách đối ngoại sau chiến tranh thế giới thứ hai
Câu trả lời của bạn
Về đối nội, để phục vụ mưu đó bá chủ thế giới, những năm đầu tiên sau chiến tranh, Mĩ đã ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ họat động. :chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước. Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng -loạt chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt
- Chủng tộc đối với người da đen và da màu... Mặc dù gặp không ít khó khăn trở ngại, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ vẫn tiếp tục và có thời kì bùng lên dữ dội như các “mùa hè nóng bỏng” của người da đen diễn ra trong những năm 1963, 1969 - 1975), phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam 1969 - 1972)..
Về đối ngoại, với một tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị trên tòan thế giới. Mĩ đã tiến hành “viện trợ” để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược... Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong 10 năm (1991 - 2000) và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ rao riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ.
Những biểu hirnj nào chứng tỏ vào thập niên 70 của thế kỉ XX, địa vị kinh tế của Mĩ bị suy giảm?
Câu trả lời của bạn
- sản lg cn : năm 1973 chỉ còn 39,8%
-dự trữ vàng vơi cạn
_đồng đô la liên tục trượt giá 2 lần
Trình bày những nét nổi bật trong chính sách đối nội đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai
Câu trả lời của bạn
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các đời tổng thống Mĩ bắt đầu từ Tru-man đã thi hành "chiến lược toàn cầu" phản cách mạng, nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị của Mĩ trên thế giới. Thực hiện chiến lược toàn cầu, Mĩ tiến hành "viện trợ" để lôi kéo, không chế các nước ; lập ra các khối quân sự ; chạy đua vũ trang, gây chiến tranh xâm lược..
Trong việc thực hiện "chiến lược toàn cầu", Mĩ đã gặp nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu nhất là thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mặt khác, Mĩ cũng thực hiện được một số mưu đồ như góp phần làm tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.
Sau khi Liên Xô bị sụp đổ, dựa vào ưu thế về quân sự, kinh tế, khoa học - kĩ thuật...
Các giới cầm quyền Mĩ ráo riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới một cực do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng và khả năng thực hiện vẫn có khoảng cách không nhỏ
Tình hình nước Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ Hai? Do đâu Mỹ phát triển nhanh về khoa học kĩ thuật?
Câu trả lời của bạn
Cũng như trước đây, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ. Tuy bề ngoài hai đảng này có vẻ đối lập nhau, nhưng thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm : phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền kếch sù ở Mĩ.
Về đối nội, để phục vụ mưu đó bá chủ thế giới, những năm đầu tiên sau chiến tranh, Mĩ đã ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ họat động. :chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước. Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng -loạt chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt
- Chủng tộc đối với người da đen và da màu... Mặc dù gặp không ít khó khăn trở ngại, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ vẫn tiếp tục và có thời kì bùng lên dữ dội như các “mùa hè nóng bỏng” của người da đen diễn ra trong những năm 1963, 1969 - 1975), phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam 1969 - 1972)..
Về đối ngoại, với một tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị trên tòan thế giới. Mĩ đã tiến hành “viện trợ” để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược... Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong 10 năm (1991 - 2000) và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ rao riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ.
Tình hình nước Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ Hai?
Bước ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã thu được 114 tỉ USD lợi nhuận, trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới. Nước Mĩ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương che chở, không bị chiến tranh tàn phá. Nước Mĩ giàu lên trong chiến tranh do được yên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản.
Trong những năm 1945 - 1950, nước Mĩ chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giới (56,47 % - 1948) ; sàn lượng nông nghiệp của Mĩ gấp 2 lần sản lượng nông nghiệp của năm nước Anh, Pháp, Tây Đức, l-ta-li-a và Nhật Bản cộng lại nắm trong tay 3/4 trữ lượng vàng của thế giới (24,6 tỉ USD), là chủ nợ duy nhất trên thế giới, về quân sự, Mĩ có lực lượng mạnh nhất thế giới tư bản và độc quyền vũ khí nguyên tử.
Trong những thâp niên tiếp sau, tuy vẫn còn đứng đầu thế giới về nhiều mặt nhưng kinh tế Mĩ không còn giữ ưu thế tuyệt đối như trước kia nữa.
Sản lượng công nghiệp chỉ còn chiếm 39,8% của thế giới (1973), dự trữ vàng cạn dần chỉ còn 11,9 tỉ USD (1974). Lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ trong vòng 14 tháng, đồng đôla Mĩ đã bị phá giá hai lần vào tháng 12 - 1973 và tháng 2 - 1974.
Có nhiều nguyên nhân làm cho địa vị kinh tế của Mĩ bị suy giảm như :
1. Sau khi khôi phục kinh tế, các nước Tây Âu và Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ và trở thành những trung tâm kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt với Mĩ.
2. Kinh tế Mĩ không ổn định do vấp phải nhiều cuộc suy thoái, khủng hoảng.
3. Do theo đuổi tham vọng bá chủ thế giới, Mĩ đã phải chi những khoản tiền khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hiện đại rất tốn kém, thiết lập hàng nghìn căn cứ quân sự và nhất là tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược.
4. Sự giàu nghèo quá chênh lệch giữa các tầng lớp trong xã hội, nhất là ở các nhóm dân cư - tầng lớp lao động bậc thấp, là nguồn gốc gây nên sự không ổn định về kinh tế và xã hội ở Mĩ.
Do đâu Mỹ phát triển nhanh về khó học kĩ thuật
Vì nước Mỹ có những tiền đề thuận lợi cho cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật lần thứ 2.
-Trước chiến tranh thế giới 2 ,Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất Thế giới.Mỹ lại chú ý thu hút nhân tài từ khắp nơi,đầu tư cho Giáo dục và con người,tạp những tiền đề đầu tiên cho cuọc cách mạng khoa học kĩ thuật .
-Trong chiến tranh thế giới 2,mặc dù nước Mỹ tham chiến nhưng do được 2 đại dương lớn che trở nên đất nước ko bị chiến tranh tàn phá,sản xuất được duy trì.Mặt khác,các nước lớn trên thế giới bấy giờ (Anh-Pháp....)đều đang tham chiến và bị chiến tranh tàn phá,các nhà khoa học từ các nước đổ về Mỹ,nơi có điều kiện hòa bình,có trang thiết bị hiện đại,...để nghiên cứu khoa học.
-Sau chiến tranh,Mỹ được lợi 114 tỷ USD và khoảng 2-3 thập niên đầu sau chiến tranh ,Mỹ là trung tâm kinh tế duy nhất của thế giới ,tạo ra những tiền đề về kinh tế cho cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật bùng nổ.
-Mỹ chú trọng thu hút các nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới sau chiến tranh.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho nền KT nước Mỹ suy giảm giai đoạn 1960-1973 là gì vậy????
Help me plzzzzz.....
Câu trả lời của bạn
- Sự vươn lên mạnh mẽ của các nước Tây Âu và Nhật Bản đã trở thành những trung tâm kinh tế-tài chính ngày càng cạnh tranh gay gắt với Mĩ.
- Sự khủng hoảng có tính chất chu kì của nền kinh tế Mĩ.
- Những chi phí khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang và các cuộc chiến tranh xâm lược...
- Sự chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội, nhất là các nhóm cư dân - tầng lớp lao động bậc thấp, dẫn đến sự không ổn định vé kinh tế, xã hội ở Mĩ.
Vì sao sau chiến tranh thế giới thứ hai nền kinh tế Nhật Bản phát triển thần kì
Câu trả lời của bạn
Con người Nhật được đào tạo chu đáo và có ý chí vươn lên
Sự quản lí có hiệu quả của các xí nguệp , công ti
Vai trò điều tiết và đề ra các chiến lược phát triển của Chính phủ Nhật Bản
Hãy nêu tình hình kinh tế nước Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ 2? Vì sao nước Mĩ trở thành nước tư bản giàu nhất thế giới sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc
Câu trả lời của bạn
Cũng như trước đây, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà thay nhau lên cầm quyền ở Mĩ. Tuy bề ngoài hai đảng này có vẻ đối lập nhau, nhưng thực chất đều thống nhất trong chính sách đối nội và đối ngoại nhằm : phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền kếch sù ở Mĩ.
Về đối nội, để phục vụ mưu đó bá chủ thế giới, những năm đầu tiên sau chiến tranh, Mĩ đã ban hành hàng loạt đạo luật phản động như cấm Đảng Cộng sản Mĩ họat động. :chống lại phong trào đình công và loại bỏ những người có tư tưởng tiến bộ ra khỏi bộ máy Nhà nước. Tuy sau này do áp lực đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, một vài đạo luật đã phải hủy bỏ, nhưng chính quyền của các đời tổng thống vẫn tiếp tục thực hiện hàng -loạt chính sách nhằm ngăn cản phong trào công nhân, thực hiện chính sách phân biệt
- Chủng tộc đối với người da đen và da màu... Mặc dù gặp không ít khó khăn trở ngại, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mĩ vẫn tiếp tục và có thời kì bùng lên dữ dội như các “mùa hè nóng bỏng” của người da đen diễn ra trong những năm 1963, 1969 - 1975), phong trào phản chiến trong những năm Mĩ xâm lược Việt Nam 1969 - 1972)..
Về đối ngoại, với một tiềm lực kinh tế - quân sự to lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giới cầm quyền Mĩ đã đề ra “chiến lược toàn cầu” nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và thiết lập sự thống trị trên tòan thế giới. Mĩ đã tiến hành “viện trợ” để lôi kéo, khống chế các nước nhận viện trợ, lập các khối quân sự, gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược... Tuy đã thực hiện được một số mưu đồ, nhưng Mĩ cũng vấp phải nhiều thất bại nặng nề, tiêu biểu là thất bại của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Dựa vào sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong 10 năm (1991 - 2000) và vượt trội về các mặt kinh tế, khoa học - kĩ thuật, quân sự, các giới cầm quyền Mĩ rao riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật tự thế giới “đơn cực” do Mĩ hoàn toàn chi phối và khống chế. Nhưng giữa tham vọng to lớn và khả năng thực tế của Mĩ vẫn có khoảng cách không nhỏ.
Hãy nêu tình hình kinh tế nước Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ 2?
Bước ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ đã thu được 114 tỉ USD lợi nhuận, trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất thế giới. Nước Mĩ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương che chở, không bị chiến tranh tàn phá. Nước Mĩ giàu lên trong chiến tranh do được yên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản.
Trong những năm 1945 - 1950, nước Mĩ chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn thế giới (56,47 % - 1948) ; sàn lượng nông nghiệp của Mĩ gấp 2 lần sản lượng nông nghiệp của năm nước Anh, Pháp, Tây Đức, l-ta-li-a và Nhật Bản cộng lại nắm trong tay 3/4 trữ lượng vàng của thế giới (24,6 tỉ USD), là chủ nợ duy nhất trên thế giới, về quân sự, Mĩ có lực lượng mạnh nhất thế giới tư bản và độc quyền vũ khí nguyên tử.
Trong những thâp niên tiếp sau, tuy vẫn còn đứng đầu thế giới về nhiều mặt nhưng kinh tế Mĩ không còn giữ ưu thế tuyệt đối như trước kia nữa.
Sản lượng công nghiệp chỉ còn chiếm 39,8% của thế giới (1973), dự trữ vàng cạn dần chỉ còn 11,9 tỉ USD (1974). Lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ trong vòng 14 tháng, đồng đôla Mĩ đã bị phá giá hai lần vào tháng 12 - 1973 và tháng 2 - 1974.
Có nhiều nguyên nhân làm cho địa vị kinh tế của Mĩ bị suy giảm như :
1. Sau khi khôi phục kinh tế, các nước Tây Âu và Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ và trở thành những trung tâm kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt với Mĩ.
2. Kinh tế Mĩ không ổn định do vấp phải nhiều cuộc suy thoái, khủng hoảng.
3. Do theo đuổi tham vọng bá chủ thế giới, Mĩ đã phải chi những khoản tiền khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hiện đại rất tốn kém, thiết lập hàng nghìn căn cứ quân sự và nhất là tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược.
4. Sự giàu nghèo quá chênh lệch giữa các tầng lớp trong xã hội, nhất là ở các nhóm dân cư - tầng lớp lao động bậc thấp, là nguồn gốc gây nên sự không ổn định về kinh tế và xã hội ở Mĩ.
Xem thêm tại: http://loigiaihay.com/tinh-hinh-nuoc-mi-sau-chien-tranh-the-gioi-thu-hai-c84a12668.html#ixzz51WHmFyed
Vì sao nước Mĩ trở thành nước tư bản giàu nhất thế giới sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc
Nước Mĩ ở xa chiến trường, được hai đại dương là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương che chở, không bị chiến tranh tàn phá. Nước Mĩ giàu lên trong chiến tranh do được yên ổn phát triển sản xuất và bán vũ khí, hàng hoá cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản.
So sánh Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới ?
Câu trả lời của bạn
Tình hình kinh tế:
- Điều kiện:
+ Không bị chiến tranh tàn phá.
+ Thu lợi nhuận sản xuất vũ khí.
+ Lợi dụng châu Âu có chiến tranh để sản xuất hàng hóa, xuất khẩu.
- Biểu hiện: Năm 1914 - 1919
+ Sản lượng CN tăng 5 lần.
+ Tổng giá trị XNK tăng 4 lần.
+ Dự trữ vàng và ngoại tệ tăng 6 lần.
b. Tình hình chính trị – xã hội:
- Khó khăn: Thiếu nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, mất cân đối giữa CN và N2, giá cả đắt đỏ, đời sống nhân dân không được cải thiện...
- Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân bùng nổ mạnh.
+ “Bạo động lúa gạo” – mang tính chất quần chúng.
+ Tháng 7/ 1922 ĐCS thành lập.
Mỹ
Tình hình kinh tế
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Mĩ có nhiều lợi thế:
+ Mĩ trở thành chủ nợ của Châu Âu (Anh, Pháp nợ 10 tỉ USD).
+ Thu lợi nhuận lớn nhờ buôn bán vũ khí và hàng hoá
+ Mĩ chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
=> Những cơ hội vàng đó đã đưa Mĩ vào thời kỳ phồn vinh trong suốt thập niên 20 của thế kỷ XX
Năm 1923-1929, sản lượng công nghiệp tăng 69%, năm 1929 chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới.
Đứng đầu thế giới về sản xuất ôtô thép, dầu hoả -> Ông vua ôtô của thế giới.
Năm 1929, nắm trong
tay 60% dự trữ vàng của thế giới -> Chủ nợ của thế giới
Hạn chế :
tình hình chính trị - xã hội
* Chính trị:
- Nắm chính quyền là tổng thống Đảng cộng hoà
- Thực hiện chính sách ngăn chặn công nhân đấu tranh, đàn áp những tư tưởng tiến bộ.
Hãy cho biết tình hình chính trị của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ nhất?
* Xã hội:
Nhà ở của người lao động Mỹ những năm 20 thế kỷ XX
So sánh Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới
* Nhật Bản:
- Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận, bị quân đội nước ngoài chiếm đóng.
- Kinh tế bị tàn phá hết sức nặng nề.
- Xuất hiện nhiều khó khăn bao trùm đất nước như: thất nghiệp trầm trọng, thiếu thốn lương thực, thực phẩm,...
* Mĩ
- Sau chiến tranh Mĩ là nước giàu nhất thế giới.
- Không bị chiến tranh tàn phá.
- Chiếm ưu thế về mọi mặt trong thế giới tư bản.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay đã và đang có những tác động như thế nào đối vs con người
Câu trả lời của bạn
- Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện nay đã và đang có những tác động tích cực đối với cuộc sống con người. Nó cho phép thực hiện những bước nhảy vọt về sản xuất và năng suất lao động, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người, đưa đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư lao động trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
- Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật cũng mang lại những hậu quả tiêu cực (chủ yếu do con người tạo ra) : chế tạo các loại vũ khí hủy diệt, ô nhiễm môi trường, những tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới...
Nêu chính sách đối ngoại nổi bật của Mĩ sau chiến tranh ? Liên hệ chính sách của Mĩ đối với Việt Nam ?
Help ME !!!!!!!!!!!
Câu trả lời của bạn
1. Ủng hộ Việt Minh đánh Pháp, đuổi Nhật để giúp “họ” giành lại độc lập.
Tiếp cận với một số sách và tài liệu giáo khoa của Mĩ và Anh, các nhà nghiên cứu và giáo dục LS cho rằng trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam không có ảnh hưởng gì đối với thế giới, vì “họ còn đang chìm trong chế độ thực dân phong kiến và đang phải chống lại sự đô hộ của người Pháp”. Nhưng sau khi ông Hồ (Hồ Chí Minh – TC chú) cứu các nhân viên tình báo Mĩ (OSS) và coi Mĩ là một người bạn thì nước Mĩ đã chú ý đến Việt Nam, ủng hộ nền độc lập của Việt Minh do ông Hồ đứng đầu. Theo các SGK, từ những năm cuối của cuộc chiến tranh, mặc dù biết “Hồ Chí Minh là một cộng sản”, nhưng nước Mĩ vẫn gửi 500 khẩu súng cho Việt Minh để chống lại người Nhật Bản [4; 21], [6; 228], đồng thời phản đối người Pháp có ý định dành lại sự thống trị ở Đông Dương khi quân Nhật liên tiếp thất bại [4;23]. Năm 1943, Tổng thống Rudơven đã lên án chính sách của Pháp đối với nhân dân Đông Dương: “Nước Pháp đã cai trị miền đất 30 triệu dân được gần 100 năm, nhưng những con người ở nơi đây còn nghèo khổ hơn khi họ đến” [4; 23 – 24], vì thế ông mong đợi “khi cuộc chiến tranh kết thúc (Chiến tranh thế giới thứ hai– TG chú), Đông Dương nên được quyền tự trị” [6; 228].
2. Ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương.
Sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Việt Nam từ khi Tơruman lên làm Tổng thống, vì đã không thực hiện theo chính sách đối ngoại của Rudơven. Lúc này, “Đông Nam Á đã là một thế giới khác đối với Tơruman” [4; 24]. Cụ thể hóa cho chính sách của Tổng thống tiền nhiệm mới, các sách và tài liệu giáo khoa ghi rõ: Tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945), các nước đồng minh – trong đó Mĩ đóng vai trò trọng yếu đã vạch ra một kế hoạch tỉ mỉ đối với việc đầu hàng của quân đội Nhật Bản. Theo đó, người Trung Quốc (trên thực tế là quân Trung Hoa dân quốc) sẽ đảm nhiệm việc giải giáp lực lượng Nhật Bản ở Bắc vĩ tuyến 16, quân Anh sẽ đóng ở Sài Gòn và đối phó với lực lượng Nhật Bản ở Nam vĩ tuyến. Sau chiến tranh, nước Việt Nam thuộc Pháp trước đây đã giành được độc lập, do Hồ Chí Minh – một người cộng sản được huấn luyện ở Liên Xô đứng đầu đã buộc nước Mĩ phải quan tâm.
Đặc biệt, từ việc nhìn nhận “Liên Xô là một mối đe dọa đối với nền an ninh hòa bình thế giới”, cũng như Đảng Cộng sản Pháp đang ngày một gia tăng (điều mà Tơruman không hề muốn), chính sách của Mĩ đối với Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn: “Ông ta không những không ngăn cản người Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương, mà còn giúp đỡ, ủng hộ Pháp giành lại những thuộc địa của mình” [3; 414]. Tổng thống Tơruman cũng giúp đỡ Pháp khắc phục hậu quả sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đối phó với các thuộc địa của mình bằng cách “rót những trận mưa vàng và đôla thông qua kế hoạch Mácsan, dĩ nhiên Việt Minh không nhận được bất cứ thứ gì từ phía Mĩ” [4; 26]. Nhờ có sự giúp đỡ của Mĩ, thực dân Pháp đẩy mạnh xâm lược trở lại Đông Dương và gây nên “chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946 – 1954)(*).
Như vậy, chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Việt Nam những năm cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai và những năm đầu sau chiến tranh có sự thay đổi hoàn toàn. Lí giải về sự thay đổi này, các SGK và tài liệu giáo khoa đều đưa ra hai lí do: Tổng thống tiền nhiệm mới – Tơruman không thực hiện theo chính sách ủng hộ nền độc lập của Việt Minh mà Rudơven đã phát biểu; hai là do bối cảnh của “Chiến tranh lạnh”, sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mĩ (Việt Nam được Liên Xô ủng hộ).
3. Can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương.
Nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Việt Nam (1945 – 1954) ta thấy việc giúp đỡ Pháp đề ra kế hoạch Rơve (ngày 13/5/1949), công nhận Chính phủ Bảo Đại (ngày 7/2/1950), viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp (ngày 8/5/1950) là thể hiện rõ sự can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp của Mĩ vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương [12; 136]. SGK và các tài liệu giáo khoa của Mĩ và Anh lại lí giải về việc can thiệp và “dính líu” của Mĩ là do lo sợ “cộng sản chủ nghĩa” sẽ bao trùm khắp Đông Nam Á, lan sang châu Á, châu Mĩ,…. Theo họ, trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh, chính quyền Mĩ khá yên tâm về sự có mặt của người Pháp ở đây, nhưng từ khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời đã giúp đỡ Bắc Triều Tiên đẩy lùi quân Nam Triều Tiên tới vĩ tuyến 38, rồi viện trợ cho Việt Minh đánh thắng Pháp trong nhiều chiến dịch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn thì Mĩ không thể làm ngơ. Chính quyền Oasinhtơn đã bắt đầu nhìn cuộc chiến tranh Đông Dương bằng một viễn cảnh khác, coi Đông Dương là một phạm vi hoạt động quan trọng trong chiến lược chống lại chủ nghĩa cộng sản toàn cầu [4; 32], [9; 34]. Sứ mệnh của nước Mĩ được các nước tư bản đồng minh giao phó sau Chiến tranh thế giới thứ hai là phải bảo vệ được “thế giới tự do”, chống lại “sự đe dọa” của chủ nghĩa cộng sản, nhưng cuộc “chiến tranh Đông Dương thuộc Pháp” cho thấy nguy cơ cộng sản bành trướng đang đến gần, vì vậy Mĩ phải hành động sớm hơn. Sự lo ngại về chủ nghĩa cộng sản lan ra khắp thế giới đã được chính quyền Mĩ đưa ra thông qua ‘Học thuyết Đôminô” vào năm 1950. Học thuyết này cho biết, trong một ván cờ Đôminô, nếu một quân cờ đổ xuống thì tất cả các quân còn lại trong ván cờ ấy cũng sẽ đổ xuống theo như một sợi dây chuyền không thể nào ngăn cản nổi. Sách nhấn mạnh:
“Toàn bộ nền an ninh của thế giới tự do phụ thuộc vào sự sống còn của Đông Dương thuộc Pháp, và nếu Hồ Chí Minh thành công trong việc xâm chiếm Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì thì sự sụp đổ của Lào, Campuchia chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Nếu Đông Dương nằm trong tầm tay của Đảng Cộng sản thì ván vờ Đôminô sẽ bị sụp đổ theo hai hướng: Thái Lan và Miến Điện (tức Mianma – TG chú thích) sẽ đầu hàng, khi ấy Pakixtan và Ấn Độ, Ápganixtan và phần còn lại của Trung Đông sẽ bị sụp đổ. Sau đó, cộng sản sẽ nhanh chóng xâm nhập vào Bắc Phi và toàn bộ miền Địa Trung Hải,… Hơn nữa, sự sụp đổ ở Việt Nam có thể làm lung lay Malaysia, Philippin, Inđônêxia và một khi Inđônêxia sụp đổ thì Australia, Niudilân cũng sẽ sụp đổ theo” [4; 32]. Vì vậy, để “bảo vệ thế giới tự do”, Mĩ “sẽ trả bất cứ cái giá nào, chịu đựng mọi gánh nặng, đương đầu với mọi khó khăn, hậu thuẫn bất cứ người bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào để đảm bảo sự sống còn và thắng lợi của tự do” [11; 195].
Từ việc lí giải lí do trên, chính quyền Tơruman đã ủng hộ Bảo Đại và bắt đầu hỗ trợ cho Pháp về kinh tế, quân sự chống lại cuộc xung đột ở Đông Dương, mức viện trợ ban đầu chỉ khiêm tốn 10 triệu USD. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1954), viện trợ của Mĩ cho Pháp đã lên tới 80%, hơn cả số tiền mà Mĩ cung cấp cho Pháp dưới kế hoạch Mácsan [5; 34]. Song, sự viện trợ của Mĩ cũng không thể làm tăng thêm sức mạnh cho Pháp và Điện Biên Phủ vẫn sẽ bị mất trong một thời gian không xa. Tình hình ấy khiến tướng Pau Ely – Tham mưu trưởng quân đội Pháp tức tốc bay tới Oasinhtơn (ngày 20/3/1954) để gặp Tổng thống Aisenhao. Lập tức, Quốc hội Mĩ thảo luận xoay quanh vấn đề giúp đỡ Pháp bằng cách “sử dụng không quân ném bom nguyên tử” hay “pháo binh”? Hai trong số nhiều người ủng hộ nhất là Phó Tổng thống Níchxơn và Tham mưu trưởng Rát –Pho. Tài liệu dẫn lời của Rát-Pho như sau:
“Chúng ta có thể giúp đỡ người Pháp bằng việc tấn công không quân …. Nếu ta sử dụng vũ khí nguyên tử, chúng ta có thể sẽ thành công” [4; 43 - 44].
Khi thực dân Pháp ngày càng sa lầy, có ý thương lượng với Chính phủ Việt Minh để rút quân về nước thì Níchxơn phản đối: “Không thể hạ vũ khí khi chưa giành được chiến thắng hoàn toàn. Nếu Pháp ngừng chiến đấu, Mỹ sẽ phải đưa quân đến” [13; 69].
Cuối cùng, tại một cuộc họp quan trọng của Hội đồng an ninh quốc gia (vào 4/1954), khi vấn đề tranh cãi lại diễn ra có hay không sử dụng vũ khí nguyên tử thì Tổng thống Aisenhao đã bực tức ngang cuộc thảo luận: “Trời ơi! Các anh hẳn là những đứa trẻ mất trí. Chúng ta không thể sử dụng điều tồi tệ ấy để chống lại những người châu Á lần thứ hai” [4; 46]. Vì không được Mĩ giúp đỡ đến cùng, quân Pháp bị thất bại thảm hại ở Điện Biên Phủ (7/5/1954). Sau đó, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết chấm dứt chủ nghĩa thực dân Pháp, nhưng “Hiệp định hòa bình đã chứa đựng những thiếu sót mà chính nó góp phần vào làm tai họa sau này” Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam trở thành nước Dân chủ cộng hòa (Hà Nội), miền Nam trở thành nước Cộng hòa đặt dưới tay một tên độc tài phản động Ngô Đình Diệm (ở Sài Gòn) [9; 330], [11; 66],….
Em biết gì về nước Mĩ ( diện tích địa lí, đặc điểm tài nguyên...)
Những nguyên nhân khiến kinh tế Mĩ phát triển mạnh mẽ sau năm 1945 là gì?
Vì sao từ năm 1973 trở đi kinh tế Mĩ bắt đầu suy giảm.
< *Hóng* >
Câu trả lời của bạn
* Nguyên nhân khiến nước Mĩ phát triển kinh tê mạnh mẽ sau năm 1945:
- Mĩ là nước thu lợi nhuận khổng lồ từ sau thế chiến 2.
- Mĩ là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nguồn nhân công dồi dào
- Là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thật hiện đại của thế giới
- Trình độ sản xuất và tập trung tư bản cao
- Là nước nằm trên đường hằng hải quốc tế
- Các chính sách và hoạt động điều tiết của nhà nước là nguyên nhân thúc đẩy nền kinh tế của Mĩ phát triển mãnh mẽ.
* Năm 1973, kinh tế Mĩ suy giảm vì:
- Do sự vươn lên mạnh mẽ của Tây âu, nhaantj bản đã trơt thành trung tâm kinh tế cạnh tranh gay gắt với mĩ.
- Kinh tế Mĩ không ổn định do vấp phải nhiều cuộc suy thoái khủng hoảng
- Do theo đuổi tham vọng làm bá chủ thế giới, Mĩ phải chi những khoản tiền khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí, gây chiến tranh xâm lược ra nhiều nước
- Sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn giữa các tầng lớp trong xã hội
Thời điểm nào nền kinh tế Mĩ không còn giữ ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế TG?
Trả lời và giải thích hộ mình nha!!!
Câu trả lời của bạn
Những năm 90 của thể kỉ XX
> 1945
sau năm 1945
Những năm 70 (thế kỉ XX)
những năm 60 của thế kỉ xx
những năm 90 của tk xx
Những năm 90 của thế kỉ XX
Chúc bạn học tốt
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *