Thông qua bài học này các em sẽ hiểu được, những thành tựu của Liên Xô và các nước Đông Âu ở những năm 60-70 của thế kỉ XX, những thành tựu đó không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên đến những năm 80 sự phát triển đó dần đi vào khủng hoảng và tan rã. Vậy thì nguyên do đâu mà có sự tan rã đó. Xin mời các em cùng tìm hiểu bài học: Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70 đến đầu những năm 90 của thế kỉ XX
(Cuộc biểu tình đòi li khai của dân Lit - Va)
Qua bài học này các em phải nắm được các nội dung kiến thức cơ bản sau: Sự khủng hoảng và tan rã của Liên Bang Xô Viết. Cuộc khủng hoảng và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu.
Để cũng cố bài học, xin mời các em cũng làm bài Trắc nghiệm Lịch sử 9 Bài 2với những câu hỏi củng cố bám sát nội dung bài học.
Bước sang những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình kinh tế của Liên Xô như thế nào?
Vì sao Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ đất nước trong những năm 80 của thế kỉ XX?
Công cuộc cải tổ của M. Goóc-ba-chốp bắt đầu từ năm nào?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 9 Bài 2để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận trang 10 SGK Lịch sử 9 Bài 2
Bài tập trang 12 SGK Lịch sử 9
Bài tập 1.1 trang 7 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.2 trang 7 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.3 trang 7 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.4 trang 7 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.5 trang 7 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 2 trang 8 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 3 trang 9 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 4 trang 9 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 5 trang 10 SBT Lịch Sử 9
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
Chúc các em học thật tốt. Các em có thể tham khả bài học sau: Quá trình phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và sự tan rã của hệ thống thuộc địa
-- Mod Lịch Sử 9 DapAnHay
Bước sang những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình kinh tế của Liên Xô như thế nào?
Vì sao Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ đất nước trong những năm 80 của thế kỉ XX?
Công cuộc cải tổ của M. Goóc-ba-chốp bắt đầu từ năm nào?
Thời gian tiến hành công cuộc "cải tổ" của Liên Xô kéo dài trong bao lâu?
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết được tồn tại trong khoảng thời gian nào?
Đâu là trở ngại chủ quan ảnh hưởng đến thắng lợi của xã hội chủ nghĩa và Đông Âu?
Nguyên nhân cơ bản nào làm cho chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?
Nước xóa bỏ thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở Đông Âu là:
Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) giải thể vào năm nào?
Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV) bị giải thể do nguyên nhân nào?
Công cuộc cải tổ ở Liên Xô đã diễn ra như thế nào và kết quả cuối cùng ra sao?
Quá trình khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu đã diễn ra như thế nào?
Tình hình Liên Xô cuối những năm 70 - đầu những năm 80 của thế kỉ XX là
A. sản xuất tiếp tực phát triển mạnh, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao.
B. Xã hội ổn định, tuy nhiên tình trạng vị phạm pháp chế ở một bộ phận cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã ít nhiều làm giảm lòng tin của nhân dân.
C. Tình hình kinh tế -xã hội tương đối ổn định, tuy nhiên tệ quan liêu, tham những đã nảy sinh trong một số bộ phận các bộ, đảng viên.
D. đất nước Xô Viết lâm vào khủng hoảng toàn diện
Mục đích của công cuộc cải tổ ở Liên Xô là
A. đưa nền kinh tế đất nước vượt qua khó khăn
B. khắc phục những sai lầm,đưa đất nước thoát khoi khủng hoảng và xây dựng XHCN đúng với bản chất và ý nghĩa nhân văn của nó
C. đưa nền kinh tế Liên Xô tiến nhanh, theo kịp các nước Công Nghiệp tiên tiến
D. đưa đất nước tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản
Kết quả công cuộc cải tổ về kinh tế ở Liên Xô là
A. nền sản xuất trong nước bước đầu khôi phục
B. bước đầu đáp ứng được những mặt hàng thiết yếu cho nhân dân
C. nền kinh tế vẫn trượt dài trong khủng hoảng
D. nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN hình thành và bước đầu được củng cổ
Sự kiện đánh dấu mốc chấm dứt chế độ XHCN ở Liên Xô là
A. Cuộc đảo chính ngày 19-8-1991 tai Mát-xcơ-va của một số người lãnh đạo Đảng và nhà nước Xô Viết
B. Đảng Cộng Sản Liên Xô bị đình chi hoạt động
C. Ngày 21-12-1991, cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) được thành lập.
D. Ngày 25-12-1991, lá cờ Liên bang Xô viết được hạ xuống khỏi nóc điện Crem-li.
Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng ở các nước Đông Âu là
A. Đảng Cộng Sản ở các nước Đông Âu phải chấm dứt từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, thực hiện đa nguyên chính trị
B. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu thắng cử trong cuộc tổng tuyển cử tự do
C. chế độ XHCN đã bị sụp đổ ở tất cả các nước Đông Âu, kết thúc sự tồn tại của hệ thống XHCN thế giới
D. nền kinh tế XHCN chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần sở hữu
Hãy điền chữ Đ (Đúng) hoặc chữ S (sai) vào ô ☐ trước các câu sau
1. ☐ Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, ban lạnh đạo Liên Xô và nước XHCN ở Đông Âu sớm nhận thức được sự cần thiết phải tiến hành cuộc cách mạng kinh tế xã hội.
2. ☐ Công cuộc cải tổ ở Liên xô, do không được chuản bị đầy đủ các điều kiện cần thiết và đường lối chiến lược toàn diện, nên cang đưa đất nước lún sau vào khủng hoảng, rối loạn.
3. ☐ Ngày 25-12-1991, chế đỗ XHCN ở Liên Xô chấm dứt sau 69 năm tồn tại
4. ☐ sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu dẫn đến sự giải thể của hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và tổ chức Liên Hợp Quốc Vác-sa-va.
5. ☐ Nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ cửa chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Điền vào dấu... về quá trình khủng hoảng và tan rã của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
1. ... : Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế và chính trị ngày càng gay gắt.
2. Tháng 3/1985: ...
3. Cuối năm 1989: ...
4. ...: Một số người lãnh đạo Đảng và Nhà Nước Liên Xô đã tiến hành đảo chính, nhằm lật đổ tổng thống Gooc-ba-chốp
5. Ngày 28-6-1991:...
6. ...: Tổ chức Liên Hợp Quốc Vác-sa-va tuyên bố giải thể
7. Ngày 21-12-1991:...
8. Ngày 25-12-1991: ...
Nội dung chính của cuộc cải tổ ở Liên Xô vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX là gì? Theo em, công cuộc cải tổ có đem lại kết quả mong muốn không? Hãy nêu dẫn chứng cụ thể?
Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã dẫn đến những hậu quả ra sao?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nguyên nhân nào mang tính chất giáo điều đưa đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu?
Câu trả lời của bạn
Xây dựng một mô hình về CNXH không phù hợp với sự biến đổi của thế giới và thực tế khách quan.
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở liên. Hậu quả. Qua đó em rút ra được bài học gì cho xã hội chủ nghĩa nước ta
Câu trả lời của bạn
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở liên. Hậu quả
-Một là, mô hình chủ nghĩa xã hội đã xây dựng có nhiều khuyết tật và thiếu sót : đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan, duy ý chí, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu cao cấp làm cho sản xuất trì trệ, thiếu dân chủ và công bằng xã hội. – Hai là, không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại, đưa tới sự trì trệ, khủng hoảng về kinh tế – xã hội. – Ba là, chậm thay đổi trước những biến động lớn cuả tình hình thế giới (Liên Xô bị khủng hoảng từ lâu nhưng mãi đến năm 1985 mới bắt đầu cải tổ và các nhà lãnh đạo Đông Âu cho rằng chủ nghĩa xã hội là ưu việt không có gì sai sót mà sửa chữa). Sau khi sửa chữa lại tiến hành cải tổ mắt nhiều sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng càng thêm nặng nề. – Bốn là, hoạt động chống phá cuả các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước liên tục phát triển…có tác động không nhỉ làm cho tình hình càng thêm rối loạn. -> Sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề. Đây là tổn thất lớn trong phong trào cộng sản quốc tế, dẫn đến hậu quả là hệ thống thế giới cuả chủ nghĩa xã hội thực tế không còn tồn tại nữa. Qua đó em rút ra được bài học gì cho xã hội chủ nghĩa nước ta Nhiều cơ quan thông tin đại chúng của chúng ta thường đưa tin chủ yếu là do nguyên nhân bị diễn biến hòa bình, một số cán bộ chủ chốt bị mua chuộc phản bội lại Đảng, dẫn tới cách mạng màu,... mà chưa đi sâu vào nội bộ Đảng, vào lỗi hệ thống của Đảng, vào sự thoái hóa biến chất trong Đảng, Nhà nước và Xã hội do lỗi hệ thống gây ra. Đảng đã trở thành lực lượng cản trở sự phát triển của xã hội, đã trở thành lực cản của sự phát triển tự do dân chủ của xã hội. Nói theo tinh thần của Marx thì cái gì cản trở sự phát triển là thối nát, là phản động. Chính những người cộng sản chân chính, chính liên minh giai cấp công nhân với nông dân và nhân dân lao động, chính độ ngũ trí thức cũng không muốn bảo vệ một Đảng đã thoái hóa biến chất như vậy. Đó mới là nguyên nhân chính, chứ không phải do kẻ thù của chủ nghĩa xã hội phá hoại là chính. Chính những người cộng sản chân chính cũng muốn giải tán Đảng đã biến chất để xây dựng Đảng mới, để sửa lỗi hệ thống, để làm lại từ đầu.
Tại sao chế độ xã hội chủ nghĩa ở liên xô và đông âu lại sụp đổ
Câu trả lời của bạn
Do:
- Đã xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa đúng đắn, chư phù hợp.
- Chậm sửa chưa, thay đổi trước những biến động của tình hình thế giới và khi sửa chữa, thay đổi thì lại mắc nhiều sai lẩm
- không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, đưa tới những khủng hoảng về kinh tế, xã hội.
- Những người lãnh đạo đất nước ha hóa về phẩm chất đạo đức
- sự pháp hoại của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước.
Nguyên nhân liên bang xô viết tan rã ? qua đó em rút ra bài học gì ?????????
Câu trả lời của bạn
- Đã xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa đúng đắn, chư phù hợp.
- Chậm sửa chưa, thay đổi trước những biến động của tình hình thế giới và khi sửa chữa, thay đổi thì lại mắc nhiều sai lẩm
- không bắt kịp sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, đưa tới những khủng hoảng về kinh tế, xã hội.
- Những người lãnh đạo đất nước ha hóa về phẩm chất đạo đức
- sự pháp hoại của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong và ngoài nước.
Bài học rút ra cho Việt Nam:
- Phải tiến hành cải cách nền kinh tế trước khi cải cách chính trị để phù hợp với biến động của thế giới.
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, phải có sự lãnh đạo do dân và vì dân
- Thực hiện tự do, dân chủ ở tất cả các lĩnh vực; song không được quá công khai và quá tự do...
nguyên nhân sụp đổ của liên xô và đông âu? bài học kinh nghiêm đối với việt nam?
Câu trả lời của bạn
Bài học kinh nghiêm:
Cho tới bây giờ, người ta ngày càng làm sáng tỏ được nhiều nguyên nhân, những bài học xương máu từ sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, đồng nghĩa với việc đánh mất thành quả của Cách mạng Tháng 10 vĩ đại. Việc nắm khư khư hay buông lỏng một số lĩnh vực then chốt là nguyên nhân chính của việc còn hay mất vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. Một số lĩnh vực trọng điểm đã không được đánh giá đúng đó là: chính trị, tư tưởng, tổ chức-cán bộ; kinh tế, lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân. Thứ nhất, với việc phải nắm chắc nguyên tắc xây dựng Đảng và công tác tổ chức, cán bộ nhưng một thời gian dài ĐCSLiên Xô đã buông lỏng lĩnh vực này. Những sai lầm về đường lối chính trị, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ và nhất là những sai lầm nghiêm trọng về công tác tổ chức cán bộ, trong đó có cán bộ chủ chốt cấp chiến lược. Nếu như Cách mạng Tháng 10 thắng lợi với lãnh tụ thiên tài V.I Lênin và ĐCScùng quần chúng nhân dân thì 74 năm sau, một số phần tử cơ hội chính trị trong hàng ngũ lãnh đạo chóp bu của ĐCSLiên Xô lại từng bước xóa bỏ những thành quả cách mạng. Nhiều chứng cứ cho thấy, ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX, đội ngũ những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã không tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh đến cùng để loại bỏ những phần tử cơ hội chính trị, thực dụng tư bản trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Từ năm 1959, lần đầu tiên có 4 cán bộ của ĐCSLiên Xô sang Mỹ để học, và hai trong số 4 người đó đã trở thành “con ngựa thành Tơ-roa” để thực hiện sách lược tự diễn biến ngay từ bên trong. Trước khi trở thành Tổng Bí thư ĐCSLiên Xô, M. Gooc-ba-chốp trở thành “đối tượng” giành được “sự quan tâm đặc biệt” của các nước tư bản . Cho đến khi M. Goóc-ba-chốp làm Tổng Bí thư ĐCSLiên Xô từ năm 1985 đến năm 1991, ông ta cùng bè lũ phe cánh của mình dùng danh nghĩa cải tổ để thực hiện sự thay đổi lớn về nhân sự trong đội ngũ cán bộ, dùng mọi thủ đoạn loại bỏ những người cộng sản kiên trung ra khỏi bộ máy lãnh đạo. Cuối cùng điều gì đến cũng đã đến, M.Gooc – ba – chốp đã chỉ trích nguyên tắc tập trung dân chủ ngay tại Đại hội XXVIII của ĐCS Liên Xô (7-1990). Hơn một năm sau đó, M.Goóc-ba-chốp đã chính thức xóa bỏ Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 24-8-1991. Thứ hai, ĐCSphải lãnh đạo nền kinh tế quốc gia phát triển bền vững từ đó cải thiện đời sống nhân dân, hội nhập kinh tế quốc tế nhưng phải giữ được độc lập tự chủ. Nhưng ĐCS Liên Xô lại đi ngược lại, ĐCS đã buông lỏng sự lãnh đạo lĩnh vực mang tính quyết định này để một số cá nhân thao túng nền kinh tế, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và sản phẩm của sự thỏa hiệp giữa các phần tử cơ hội, thực dụng trong cơ quan tham mưu chiến lược của Liên Xô với Trung tâm Havard của Mỹ đã ra đời với “Chiến lược cải cách kinh tế theo Chương trình kinh tế 500 ngày và chương trình kinh tế mang tên “Cuộc mặc cả vĩ đại”. Chính cái quái thai này đã dẫn tới sự phân hóa và xung đột lợi ích xã hội ngày càng sâu sắc, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Chủ nghĩa cá nhân dần ăn sâu vào xã hội, làm tổn hại đến nền kinh tế Nhà nước. Nhân không tin Đảng.Đảng mất là điều đương nhiên. Thứ ba, ĐCS Liên Xô và bộ máy chính quyền xa rời mối liên hệ mật thiết, gắn bó mật thiết với nhân dân, không dựa vào quần chúng. Đi ngược lại mục tiêu và phương thức của Cách mạng Tháng Mười. Nhiều cán bộ trong bộ máy của Đảng, Nhà nước Liên Xô ngày càng xa rời nhân dân, bị tha hóa biến chất. Tham nhũng và chủ nghĩa cá nhân phát triển thì nấm mồ dành cho mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ngày càng hiện rõ. Sự thật đau lòng là Đảng lâm nguy thì không một ai đứng lên bảo vệ và người dân cũng thờ ơ. Thứ tư, Chủ trương “phi chính trị hóa”chính thứ quái thai khác khiến cho ĐCS sụp đổ. Đảng lẽ ra phải nắm chắc lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành và tin cậy về chính trị, có sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc. Nhưng công cụ vũ trang ấy đã không trở thành như thế! Với tư cách là Tổng thống Liên Xô, M.Goóc-bachốp ra lệnh từ 1-9-1991 chấm dứt các hoạt động của Đảng trong quân đội, đã vô hiệu hóa lực lượng vũ trang vô cùng hùng mạnh của Liên Xô, đánh dấu giờ phút cuối cùng của sự sụp đổ của Liên Xô. Thứ năm, đảng đã không quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chú trọng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Những xuyên tạc với vỏ bọc như : xem xét lại một số vấn đề lịch sử ; mở một số cuộc trao đổi, tọa đàm trên một số phương tiện thông tin đại chúng; lôi kéo thế hệ trẻ ra khỏi những hoạt động chính trị nhằm phi chính trị hóa tuổi trẻ; dùng các trường đại học làm diễn đàn, để diễn thuyết về “cải tổ”, “công khai” khoét sâu vào một số sai lầm thiếu sót của Đảng, ... Đảng mất dần trận địa tư tưởng chính trị cũng như hệ thống thông tin đại chúng. Quần chúng, nhân dân mất phương hướng. Đây là bước khởi đầu của việc mất quyền lãnh đạo tư tưởng chính trị của Đảng. Bài học rút ra từ việc đánh mất chính quyền và thành quả Cách mạng 10 là vô cùng bổ ích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.Từ kinh nghiệm , bài học xương máu của sự sụp đổ xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, ĐCS Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới thành công, đạt được những thành tựu quan trọng mang tính lịch sử. Đảng ta đang thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI nhằm chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, vượt qua thách thức đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ, lãnh đạo nhân dân ta bảo vệ, xây dựng chính quyền nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và tan rã chủ nghĩa xã hội ở liên xô
Câu trả lời của bạn
Tháng 3 - 1985, Goóc-ba-chốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng, đề ra đường lối cải tổ. Cải tổ được tuyên bố như một cuộc cách mạng nhằm khắc phục những sai lầm thiếu sót trước đây, đưa đất nước thoát khỏi khủng hỏang và xây dựng một chủ nghĩa xã hội theo đúng bản chất và ý nghĩa nhân văn đích thực của nó. Nhưng do không có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết và thiếu một đường lối chiến lược toàn diện, nhất quán, nên công cuộc cải tổ nhanh chóng lâm vào tình trạng bị động, lúng túng, đầy khó khăn.
Mặc dù Ban lãnh đạo Liên Xô đã đưa ra nhiều phương án phát triển kinh tế nhưng lại chưa thực hiện được gì, nền kinh tế vẫn trượt dài trong khủng hỏang. Trước những khó khăn về kinh tế, những cái tổ về chính trị - xã hội lại được đẩy mạnh như thực hiện chế độ tổng thống tập trung mọi quyền lực, thực hiện chế độ đa nguyên về chính trị (tức nhiều đảng cùng tham gia công việc chính trị của đất nước), xoá bỏ chế độ một đảng (tức xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô), tuyên bố dân chủ và “công khai” mọi mặt.
Đất nước càng lún sâu vào khủng hoảng và rối loạn. Nhiều cuộc bãi công diễn ra, mâu thuẫn sắc tộc bùng nổ, nhiều nước cộng hoà đòi li khai, các tệ nạn xã hội gia tăng, các thế lực chống đối ráo riết kích động quần chúng...
Trong bối cảnh đó, ngày 19 - 8 - 1991 một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Xô viết đã tiến hành đảo chính, lật đổ Tổng thống Goóc-ba-chốp. Nhưng cuộc đảo chính nhanh chóng thất bại và đã dần tới những hậu quả cực kì nghiêm trọng : Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động, Nhà nước Liên bang hầu như tê liệt, các nước cộng hoà đua nhau đòi độc lập và tách khỏi Liên bang. Sự tan rã của Liên bang Xô viết chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ngày 21 - 12 - 1991, những người lãnh đạo 11 nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết đã họp và kí kết hiệp định về giải tán Liên bang xô viết, thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (thường gọi tắt là SNG). Trong buổi tối giá lạnh ngày 25- 12- 1991, Goóc-ba-chốp tuyên bố từ chức tổng thống. Lá cờ Liên bang Xô viết trên nóc điện Crem-li bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xô viết sau 74 năm tồn tại.
Nguyên nhân nào dẫn đến các nước Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
Câu trả lời của bạn
Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ vì xa rời quần chúng. Cuối đời Brezhnev, lãnh đạo Đảng CS Liên Xô càng ngày càng xa rời sự thay đổi, phát triển của thời đại, xa rời yêu cầu của quần chúng nhân dân. Trong tư tưởng và hành động, họ tỏ ra bảo thủ, cứng nhắc, duy trì hiện trạng theo kiểu tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại. Dưới thời Khrushchev và Brezhnev, về hình thức vẫn nhấn mạnh lãnh đạo tập thể, song thật ra chỉ là thay đổi từ một người quyết định thành một vài người quyết định mà thôi. Trên thực tế, không có sự thực hiện nghiêm túc của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên nhân sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu? Từ đó em hãy rút ra bài học cho Việt Nam?
Câu trả lời của bạn
Nguyên nhân sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
Mô hình xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu vốn đã mang sẵn trong mình những nhược điểm chết người, những niềm tin mù quáng và phản khoa học. Điều này đã được lịch sử chứng minh bằng sự sụp đổ không cưỡng lại của các nước XHCN. Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng không cưỡng nổi. Từ tháng 4-1989 đến tháng 9-1991, chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, tạo nên "cơn chấn động" chính trị lớn nhất trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Câu hỏi đặt ra là điều gì đã làm chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu thất bại thảm hại? Cho đến nay, trên thế giới, mà chủ yếu là các học giả ở các nước phương Tây, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khách quan và sâu sắc về hiện tượng lịch sử này, đưa ra nhiều nguyên nhân cả sâu xa và trực tiếp, cả bên trong và bên ngoài để cắt nghĩa, lý giải về sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu…
Nguyên nhân chủ quan: Bản chất giáo điều, không tưởng, phản khoa học của CNXH
Trước hết, CNXH quan niệm hết sức giản đơn và phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất, dựa trên những phân tích kinh tế chưa trọn vẹn của Marx. Cần nói rõ rằng Marx là một nhà kinh tế học tài ba, nhưng của thế kỷ 19. Do đó những hiểu biết của ông không thể nào vượt khỏi thời đại đó. Việc áp dụng máy móc những quan điểm của Marx rõ ràng đã không còn thích hợp. Sau Marx là hàng loạt những nhà kinh tế học tài ba khác, như Joseph Schumpeter chẳng hạn, đã chỉ ra những hạn chế và sai lầm của Marx. Nhưng các nhà Marxist, tôn thờ Marx như một giáo chủ của một tôn giáo lớn, đã lờ tịt những học thuyết kinh tế hiện đại hơn với niềm tin rằng chủ nghĩa Marx là tuyệt đối đúng, là tận cùng của chân lý.
Các nhà Marxist-Leninists, vốn kém hơn cả Marx lẫn Lênin, thì còn cực đoan hơn khi cho rằng có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Thực tế đã cho thấy rằng quan hệ sản xuất XHCN là một thứ quan hệ phản động chứ không phải tiên tiến gì sất. Mối quan hệ sản xuất trong việc "làm chủ tập thể" đã dẫn đến thói quen vô trách nhiệm, công nhân và nông dân trở nên lười biếng vì không bị quản thúc bởi những người quản lý có tài năng, không có động lực làm việc hăng say vì quan điểm "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu". Kết quả là sản xuất đình trệ, sản lượng kém xa với năng lực thực tế, dẫn đến việc cả xã hội đói dài dài trong khi sức sản xuất thì bỏ lãng phí.
Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin, mặc dù còn quá nhiều hạn chế, thì cũng đã đem lại một số thành quả nhất định trong một giai đoạn ngắn. Tuy nhiên, sau khi V.I. Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng tổng động viên sức lực của toàn xã hội, làm nên một số kỳ tích, nhưng đã nhanh chóng biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Liên Xô đã tiếp tục duy trì mô hình này cho đến tận khi sụp đổ. Mô hình phản động này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động của người quản lý, tiêu diệt sự sáng tạo của người lao động.
Ngày nay chúng ta đều biết rằng chính sự sáng tạo mới là động lực để thúc đẩy kinh tế phát triển. Phá hủy sáng tạo (creative destruction – DCVOnline) là thuật ngữ mà Joseph Schumpeter dùng để chỉ quá trình sáng tạo ra những phương thức sản xuất mới, cách quản lý mới, công nghệ mới… để thay thế những cái cũ. Mở rộng khái niệm phá hủy sáng tạo sang bình diện chính trị, chúng ta càng thấy cần thiết phải sáng tạo ra mô hình chính trị mới để thay thế cho mô hình phản động hiện nay. Có vậy thì đất nước mới phảt triển được.
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đã trở thành mối quan hệ giữa triều đình và thần dân. Năng lực cầm quyền của một đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền đã không phát triển thêm, khiến Đảng không bao giờ phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân trong thời bình để xây dựng đất nước. Không những đã không phát huy được dân chủ trong Đảng mà còn tiêu diệt nốt chút ít dân chủ có sẵn trong xã hội, tiêu diệt tận gốc những mầm mống của một xã hội công dân, tiêu diệt tất cả những quan hệ xã hội truyền thống trên nền tảng đạo đức dân tộc… dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn trở thành bản chất của đảng độc tài.
Rõ ràng những người cộng sản đã đánh giá quá cao CNXH hiện thực một cách mù quáng, và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản một cách thiển cận, trong khi đó vẫn vẽ vời về chủ nghĩa đế quốc như một con ngáo ộp để dọa nhân dân. Người cộng sản luôn chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “CNXH phát triển”…), không thấy hết tính chất quanh co, phức tạp, không tưởng, nhảm nhí của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Với những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên thì không có một sự cải tổ, cải cách, đổi mới nào là đúng đắn để làm chế độ XHCN hết suy yếu, thoát khỏi khủng hoảng. Đó chính là những sai lầm khuyết tật trong bản chất của chế độ XHCN, cộng thêm quan niệm giáo điều và ngu dốt của người cộng sản đã gây nên cái chết tất yếu của CNXH.
Nguyên nhân trực tiếp: Sự chán ghét XHCN của nhân dân và sự tác động từ bên ngoài
Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã có những tiến bộ về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối cải cách, dân chủ và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: "cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn", "chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó", "chúng ta tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra"…, rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy trang cho ý đồ dân chủ hóa đất nước.
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là quá trình tiến hóa một cách tiệm tiến và khôn ngoan.
Bằng phát súng lệnh "công khai", "dân chủ", "không vùng cấm", cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, xét lại tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng CNXH, không phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH mà chỉ nhìn lại những nhầm lẫn, hoang tưởng, dối trá đã được tô vẽ bởi một hệ thống tuyên truyền tinh vi. Điều này gây xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của dân chủ, văn minh, và kinh tế thị trường. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để khai sáng cho nhân dân, và chiến dịch tuyên truyền các giá trị dân chủ, xét lại quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ cổ vũ cho phong trào dân chủ hóa và hiện đại hóa theo mô hình phương Tây.
Hai là, chủ nghĩa tư bản và dân chủ tự do đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trực tiếp, để góp phần thực hiện được "diễn biến hòa bình" trong nội bộ lãnh đạo của Liên Xô và các nước Đông Âu. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra "gót chân Asin" của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng dân chủ tư bản, là chính sách thỏa hiệp với nhân dân, nhân nhượng với những người bất đồng chính kiến, niềm khao khát được làm bạn với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở "tư duy chính trị mới". Hứa hẹn viện trợ kinh tế và hợp tác về giáo dục và văn hóa được dùng làm một thứ đòn bẩy rất có ích để hướng cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa tư bản đã đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hòa bình" trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu.
Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ Nixon cho rằng "mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất". Ông viết: "Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng". Chiến lược của Mỹ trước sau như một là đưa những giá trị dân chủ tư bản vào bên trong "bức màn sắt".
Tóm lại, "sự phá hoại" của chủ nghĩa tư bản cùng với sự phản tỉnh từ bên trong và từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ.
Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm về bản chất của mô hình thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa những nước XHCN cũ thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới và hội nhập với quốc tế. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới, cũng như sụp đổ của chế độ cộng sản là tất yếu, dù sớm hay muộn. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào? Không có mục đích gì hơn là để kinh tế tăng trưởng nhanh, văn hóa, giáo dục và đời sống của người dân phát triển cao, xã hội công bằng, dân chủ, và tự do hơn.
Chúc bạn học tốt!
nêu sự thành lập của Đảng cộng sản VN và ý nghĩa
Câu trả lời của bạn
- Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam. - Những năm 1928 – 1929, chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của gia cấp vô sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó ở Vịêt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam, cần phải hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. - Trước tình hình đó, được sự uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng ( trung Quốc) chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ( 3/ 2/ 1930). * Ý ngiã lịch sử của việc thành lập Đảng: - Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. - Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm 20 của TK XX. - Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chững tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản. - Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng TG - Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của dân tộc Việt Nam.
Theo em nguyên nhân nào dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu?
Câu trả lời của bạn
A
- Trong một thời kì dài, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đem lại nhiều thành tựu to lớn nhưng càng ngày càng bộc lộ nhiều sai lầm thiếu xót dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Có nhiều lí do dẫn đến sự sụp đổ của XHCN ở Liên Xô và Đông Âu:
+ Thiếu tôn trọng đầy đủ các quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, chủ quan duy ý chí, thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thay cho cơ chế thị trường.
Điều đó làm cho nền kinh tế đất nước thiếu tính năng động, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện. Về mặt xã hội thì thiếu dân chủ và công bằng, vi phạm pháp chế XHCN. Tình trạng đó kéo dài đã khơi sâu lòng bất mãn trong quần chúng.
+ Không bắt kịp sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại, đưa tới khủng hoảng về kinh tế - chính trị. Chậm sửa chữa, thay đổi trước những biến động lớn của tình hình thế giới, và khi đã sửa chữa, thay đổi thì lại rời bỏ những nguyên lí đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
+ Khi tiến hành cải tổ lại phạm sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng càng thêm nặng nề. Những sai lầm và sự tha hóa về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng của một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong một số nước xã hội chủ nghĩa.
+ Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước ( cuộc tấn công hòa bình mà họ thường gọi là cuộc cách mạng nhung ) có tác động không nhỏ làm cho tình hình càng thêm rối loạn.
- Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 1989 - 1991 đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn thất lớn trong phong trào cộng sản - công nhân quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn tồn tại. Trật tự thế giới hai cực đã kết thúc. Nhưng đây chỉ là sự sụp đổ tạm thời của một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn và một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội - như V.I. Lênin đã nói: Nếu người ta nhận xét thực chất của vấn đề, thì có bao giờ người ta thấy rằng trong lịch sử có một phương thức sản xuất mới nào lại đứng vững ngay được, mà lại không liên tiếp trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không ?
âm mưu và thủ đoạn của mỹ trong chiến lược chiến tranh cục bộ ta đã chiến đấu chống lại và thu được kết quả như thế nào
Câu trả lời của bạn
Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ trong chiến lược ''Chiến tranh cục bộ''
Âm mưu
- Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt'' Mĩ chuyển sang ''Chiến lược chiến tranh cục bộ''
- ''Chiến tranh cục bộ'' được tiến hành bởi quân Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn
Thủ đoạn
- Quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh
- Mở cuộc hành quân ''tìm diệt'' vào Vạn Tường
- Mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc hành công ''tìm diệt'' và ''bình định''
GOOD LUCK
1.Chiến lược“ Chiến tranh Cục bộ” của Mỹ-Ngụy ở miền Nam Việt Nam.
1.1/Hoàn cảnh lịch sử:Đầu năm 1965 đứng tước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược Chiến tranh đặc biệt.Đế quốc Mỹ dưới thời tổng thống Johnson đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh Cục bộ” ở miền Nam đồng thời gây chiến tranh phá hoại miền Bắc.
*Chiến tranh Cục bộ là một hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới được tiến hành bằng quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu và quân ngụy trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng, cùng với vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ.
1.2/Âm mưu và thủ đoạn.
*Âm mưu: Đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, đàn áp và bình định cho được miền Nam, phá hoại miền Bắc đồng thời cứu nguy cho quân ngụy.
*Thủ đoạn:
-Ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu cùng với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đai vào miền Nam.
-Chúng cho xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn như Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Vũng Tàu, Tân Sơn Nhất.
-Vừa vào miền Nam chúng mở ngay những cuộc hành quân tìm diệt, đầu tiên đánh vào căn cứ Vạn Tường (Quảng Ngãi). Sau đó thực hiện nhiều cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 65-66 và 66-67.
-Để hổ trợ cho chiến lược Chiến tranh Cục bộ ở miền Nam Mỹ còn dùng không quân và hải quân bắn phá miền Bắc nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng , phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
2.Cuộc chiến đấu của quân và dân ta chống “Chiến tranh Cục bộ”.
2.1/Chiến thắng Vạn Tường (8/1965).
-Mờ sáng ngày 8//8/1965 Mỹ huy động một lực lượng lớn gồm 900 tên cùng ví vũ khí hiện đại, mở cuộc hành quân vào căn cứ Van Tường.
-Sau một ngày chiến đấu ta đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt gọn 900 tên địch, bắn cháy 22 xe, 13 máy bay.
*Ý nghĩa: Chiến thắng Vạn Tường chứng tỏ quân dân miền Nam hoàn toàn có đũ khả năng đương đầu và đánh bại quân viễn chinh Mỹ.
Những thành tựu xã hội từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX ? Những thành tựu đó có ý nghĩa gì đối với dân tộc cũng như trên thế giới ?
Bạn nào giúp mình mình sẽ tặng cho 1 thẻ cào trị giá 10000đ .
Câu trả lời của bạn
Tới năm 1950, sản xuất công nghiệp tăng 73% (kế hoạch dự định tăng 48%), hơn 6 000 nhà máy được khắc phục và xây dựng mới đã đi vào hoạt động. Một số ngành sản xuất nông nghiệp cũng vượt mức trước chiến tranh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Trong thời kì này, nền khoa học-kĩ thuật Xô viết đã có sự phát triển vượt bậc. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mĩ.
Trong hai thập niên 50 và 60 của thế kỉ XX, nền kinh tế Xô viết tăng trưởng mạnh mẽ, sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 9,6%. Liên Xô đã trở thành cường quốc công nghiệp đứng thứ hai thế giới sau Mĩ, chiếm khỏang 20% sản lượng công nghịêp của toàn thế giới.
Trong thời kì này, nền khoa học - kĩ thuật Xô viết vẫn trên đà phát triển mạnh mẽ và gặt hái được những thành công vang dội. Năm 1957, Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên khoảng không vũ trụ, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Năm 1961, Liên xỏ phóng con tàu “Phương Đông” đưa nhà du hành vũ trụ Ga-ga-rin lần đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất và cũng là nuớc dẫn đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ...
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *