Hoc 247 giới thiệu đến các em học sinh bài học: Bài 12: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân giúp các em tìm hiểu về Hôn nhân là gì? Cơ sở của một cuộc hôn nhân hợp pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của mỗi người trong hôn nhân là như thế nào? Mời tất cả các em cùng tìm hiểu bài học này.
Học xong bài này các em cần nắm được các nội dung sau:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm GDCD 9 Bài 12 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Hôn nhân là:
Tuổi kết hôn ở Nam do pháp luật qui định là
Tuổi kết hôn ở nữ do pháp luật qui định là
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập GDCD 9 Bài 12để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Giải bài 1 trang 47 SBT GDCD 9
Giải bài 2 trang 47 SBT GDCD 9
Giải bài 3 trang 47 SBT GDCD 9
Giải bài 4 trang 47 SBT GDCD 9
Giải bài 5 trang 48 SBT GDCD 9
Giải bài 6 trang 48 SBT GDCD 9
Giải bài 7 trang 48 SBT GDCD 9
Giải bài 8 trang 48 SBT GDCD 9
Giải bài 9 trang 48 SBT GDCD 9
Giải bài 10 trang 49 SBT GDCD 9
Giải bài 11 trang 49 SBT GDCD 9
Giải bài 12 trang 49 SBT GDCD 9
Giải bài 13 trang 49 SBT GDCD 9
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng GDCD DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
Hôn nhân là:
Tuổi kết hôn ở Nam do pháp luật qui định là
Tuổi kết hôn ở nữ do pháp luật qui định là
Đăng kí kết hôn ở đâu:
Chọn 1 ý đúng nhất.
Người nào không được kết hôn:
Hôn nhân hạnh phúc là gì ?
Quy định của pháp luật Việt Nam về luật hôn nhân là gì ?
Những hành vi nào dưới đây là phá hoại hạnh phúc gia đình ?
Câu thành ngữ "Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn" có ý nghĩa gì ?
Nội dung nào sau đây thể hiện quyền bình đẳng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ?
Em đồng ý với những ý kiến nào sau đây? Giải thích vì sao em đồng ý hoặc không đồng ý.
a) Kết hôn khi nam, nữ đủ 18 tuổi trở lên
b) Cha mẹ có quyền quyết định về hôn nhân của con
c) Lấy vợ, lấy chồng là việc của đôi nam nữ, không ai có quyền can thiệp
d) Kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, trên cơ sở tình yêu chân chính
đ) Kết hôn khi nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên
e) Trong gia đình, người chồng là người quyết định mọi việc
g) Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ hướng dẫn cho con trong việc chọn bạn đời
h) Không nên yêu sớm vì có thể sẽ dẫn đến kết hôn sớm
i) Kết hôn sớm và mang thai sớm sẽ có hại cho sức khoẻ của cả mẹ và con
k) Gia đình chỉ có hạnh phúc khi được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính
l) Lấy vợ, lấy chồng con nhà giàu mới có hạnh phúc
m) Nếu vợ chồng bình đẳng thì sẽ không có trật tự trong gia đình.
Em hãy tìm hiểu về những trường hợp tảo hôn (lấy vợ, lấy chồng sớm trước tuổi quy định của pháp luật) và những lí do khác nhau của các trường hợp đó.
Hãy nêu những hậu quả xấu do nạn tảo hôn gây ra mà em biết (đối với người tảo hôn, gia đình của họ và đối với cộng đồng).
Học hết trung học phổ thông, Lan đang ở nhà chờ xin việc thì gặp và yêu Tuấn, cũng đang không có việc làm. Khi hai người xin cha mẹ cho kết hôn thì hai bên gia đình đều khuyên Lan và Tuấn hãy thư thả, bao giờ có việc làm thì hãy xây dựng gia đình, nhưng Lan và Tuấn không đồng ý, cứ thúc ép cha mẹ. Cuối cùng, hai gia đình đành phải chấp thuận cho Lan và Tuấn kết hôn.
Theo em, ý kiến của gia đình Lan và Tuấn là đúng hay sai? Vì sao?
Anh Đức và chị Hoa là con bác, con chú ruột nhưng họ yêu nhau. Gia đình và họ hàng hai bên khuyên can, ngăn cản, nhưng họ vẫn kiên quyết lấy nhau vì họ cho rằng họ có quyền tự do lựa chọn, không ai có quyền ngăn cản.
- Theo em, lí do “tự do lựa chọn” của anh Đức và chị Hoa có đúng không? Vì sao?
- Nếu anh Đức và chị Hoa cứ cố tình lấy nhau thì cuộc hôn nhân của họ có hợp pháp không? Vì sao?
Bình mới 16 tuổi nhưng mẹ Bình đã ép gả Bình cho một người nhà giàu ở xã bên. Bình không đồng ý thì bị mẹ đánh và cứ tổ chức cưới, bắt Bình về nhà chồng.
- Việc làm của mẹ Bình là đúng hay sai? Vì sao?
- Cuộc hôn nhân này có được pháp luật thừa nhận không? Vì sao?
- Bình có thể làm gì đê thoát khói cuộc hôn nhân đó?
Khi lấy anh Phú, chị Hoà đang là giáo viên tiểu học. Lấy nhau một thời gian thì anh Phú được cử làm phụ trách trạm bơm nước của xã nên không có thời gian chăm lo công việc đồng áng. Anh nghe theo bố mẹ, bắt chị Hoà phải bỏ nghề dạy học để về làm ruộng. Chị Hoà không đồng ý thì anh Phú doạ sẽ li hôn với chị.
Căn cứ vào quy định của pháp luật về hôn nhân, em hãy nêu nhận xét của mình về việc làm của anh Phú.
Hiện nay, trong một số gia đình có tình trạng chồng ngược đãi, đánh đập hành hạ vợ. Trước tình trạng đó, nhiều người cho rằng đó là chuyện bình thường, là việc riêng của vợ chồng, gia đình người ta, không nên can thiệp.
Em có tán thành quan niệm đó không? Vì sao?
Em hiểu thế nào là hôn nhân?
Chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản nào?
Pháp luật nước ta quy định thế nào về quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân?
Việc kết hôn sớm có tác hại như thế nào đối với cá nhân, gia đình và xã hội?
Kết hôn đúng pháp luật là?
A. Việc kết hôn được gia đình hai bên đồng ý và tổ chức lễ kết hôn tại gia đình.
B. Việc kết hôn do hai bên nam, nữ tự nguyện quyết định và đăng kí tại uỷ ban nhân dân xã (phường, thị trấn).
C. Việc kết hôn được hai bên nam nữ nhất trí và tổ chức kểt hôn tại gia đình.
D. Việc kết hôn được Nhà thờ cho phép và tổ chức lễ kết hôn tại nhà thờ.
Tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật vê hôn nhân và gia đình là :
A. Nam, nữ từ 20 tuổi trở lên
B. Nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên
C. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên
D. Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên
Để xây dựng gia đình hạnh phúc, việc kết hôn phải dựa trên cơ sở.
A. Tình yêu chân chính và sự tự nguyện của hai bên nam, nữ.
B. Do cha, mẹ hai bên lựa chọn và quyết định.
C. Sự môn đăng hộ đối (tương đồng về địa vị và tài sản) của hai bên gia đình nhà trai và nhà gái.
D. Chung sống trước khi cưới (sống thử) và rút ra kinh nghiệm.
Tảo hôn là
A. Việc kết hôn với người bằng tuổi
B. Việc kết hôn với người ít tuổi hơn
C. Việc kết hôn với người cùng giới
D. Việc kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hồn theo quy định của pháp luật.
Bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình là:
A. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt.
B. Trong gia đình chồng là người quyết định mọi việc.
C. Trong gia đình chồng quyết định các việc lớn, vợ quyết định các việc vặt hàng ngày.
D. Ai kiếm được nhiều tiền hơn, người đó có quyền quyết định mọi việc trong gia đình.
Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình, những người nào sau đây không được kết hôn với nhau?
A. Công dân Việt Nam với người nước ngoài
B. Những người theo các tôn giáo khác nhau
C. Những người đang có vợ, chồng
D. Những người thuộc các dân tộc khác nhau
E. Những người cùng dòng máu về trực hệ
G. Những người có họ trong phạm vi 5 đời
Lan và Tuấn yêu nhau đã lâu. Khi hai người thưa chuyện với gia đình thì mẹ Lan nhất định không đồng ý vì cho rằng Tuấn ít tuổi hơn Lan, nếu lấy nhau sau này Lan sẽ già hơn chồng và sẽ không hạnh phúc. Lan và Tuấn giải thích mãi nhưng mẹ Lan vẫn không đồng ý. Theo bà, con cái phải nghe lời cha mẹ. Bà còn doạ sẽ từ con nếu Lan cứ làm theo ý mình.
Câu hỏi:
1 / Mẹ Lan có quyền ngăn cản việc kết hôn của Lan và Tuấn không? Vì sao?
2/ Lan và Tuấn có thể làm gì để thực hiện được ý nguyện của mình?
Anh K và chị H chưa đủ tuổi kết hôn nên không được đăng kí kết hôn. Thế nhưng, gia đình hai bên cứ quyết định tổ chức Lễ thành hôn cho anh chị, vì họ nghĩ trước sau gì thì hai anh chị cũng là vợ chồng của nhau. Sau Lễ thành hôn, anh K và chị H sống chung với nhau và mọi người đều thừa nhận họ là vợ chồng của nhau.
Câu hỏi:
1/ Việc tổ chức Lễ thành hôn và chung sống của anh K và chị H có được coi là đúng pháp luật không? Vì sao?
2/ Nếu muốn được là vợ chồng của nhau, anh K và chị H có cần phải đăng kí kết hôn khi đã đủ tuổi kết hôn hay không?
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Hiện nay trong một số gia đình có tình trạng chồng ngược đãi, đánh đập, hành hạ vợ. Trước tình trạng đó, nhiều người cho rằng đó là chuyện bình thường, là việc riêng của vợ chồng, gia đình người người ta, không nên can thiệp. Em có tán thành quan niệm đó không? Vì sao?
Câu trả lời của bạn
Em không tán thành với quan niệm đó vì vợ chồng phải có nghĩa vụ tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ nhau. Hành động chồng ngược đãi, đánh đập, hành hạ vợ là trái với đạo đức, trái với pháp luật, bị xã hội lên án. Hành động "bạo lực gia đình" phải được chấm dứt trong một xã hội văn minh và mọi người sống có đạo đức, có văn hóa.
Em không tán thành với quan niệm đó vì vợ chồng phải có nghĩa vụ tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ nhau. Hành động chồng ngược đãi, đánh đập, hành hạ vợ là trái với đạo đức, trái với pháp luật, bị xã hội lên án. Hành động "bạo lực gia đình" phải được chấm dứt trong một xã hội văn minh và mọi người sống có đạo đức, có văn hóa.
Khi lấy anh Phú, chị Hoa đang là giáo viên tiểu học. Lấy nhau một thời gian thì anh Phú được cử làm phụ trách trạm bơm nước của xã nên không có thời gian chăm lo công việc đồng áng. Anh nghe theo bố mẹ, bắt chị Hoa phải bỏ nghề dạy học để về làm ruộng. Chị Hoa không đồng ý thì anh Phú dọa sẽ li hôn với chị. Căn cứ vào quy định của pháp luật về hôn nhân, em hãy nhận nêu nhận xét của mình về việc làm của anh Phú?
Câu trả lời của bạn
Việc làm của anh Phú là sai, anh Phú đã vi phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hôn nhân đó là: vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Vợ, chồng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm và nghề nghiệp của nhau.
Việc làm của anh Phú là sai, anh Phú đã vi phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hôn nhân đó là: vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Vợ, chồng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm và nghề nghiệp của nhau.
Quy định của pháp luật Việt Nam về luật hôn nhân là gì?
Câu trả lời của bạn
Hôn nhân tự nguyện, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng
. Công dân được quyền kết hôn với người khác dân tộc, tôn giáo
. Được kết hôn với người nước ngoài.
Hôn nhân hạnh phúc là gì?
Câu trả lời của bạn
Một vợ, một chồng.
Một vợ, một chồng.
Anh Minh và chị Hằng yêu nhau và quyết định kết hôn. Do ông ngoại của anh Minh và ông nội của chị Hằng là anh em ruột nên khi biết anh Minh và chị Hằng yêu nhau cả hai bên gia đình đã phản đối một cách quyết liệt với lí do là Minh và Hằng có quan hệ gần gũi về huyết thống nên không thể kết hôn. Theo em, anh Minh và chị Hằng có thể kết hôn với nhau được hay không? Tại sao?
Câu trả lời của bạn
Anh Minh và chị Hằng không thể kết hôn với nhau vì pháp luật cấm kết hôn giữa người có họ trong phạm vi 3 đời (theo Khoản 3, Điều 10 - Luật Hôn nhân và Gia đình). Trong trường hợp trên, anh Minh và chị Hằng đang ở đời thứ 3.
Anh Minh và chị Hằng không thể kết hôn với nhau vì pháp luật cấm kết hôn giữa người có họ trong phạm vi 3 đời (theo Khoản 3, Điều 10 - Luật Hôn nhân và Gia đình). Trong trường hợp trên, anh Minh và chị Hằng đang ở đời thứ 3.
Anh D 21 tuổi và chị M 15 tuổi tự nguyện yêu nhau và quyết định lấy nhau. Một tuần sau khi tổ chức đám cưới, anh D đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bắt và truy tố về tội giao cấu với trẻ em. Anh D, cô M và hai bên gia đình đã phản đối việc bắt giữ vì cho rằng việc anh D và chị M cưới nhau và chung sống với nhau là hoàn toàn tự nguyện và đã được sự đồng ý và nhất trí của hai bên gia đình. Theo em, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bắt giam và truy tố anh D về tội giao cấu với trẻ em là đúng hay sai? Tại sao
Câu trả lời của bạn
Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bắt giam và truy tố anh D về tội giao cấu trẻ em là đúng, vì Khoản 1, Điều 115 của Bộ luật Hình sự quy định: Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt từ một năm đến năm năm.
Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bắt giam và truy tố anh D về tội giao cấu trẻ em là đúng, vì Khoản 1, Điều 115 của Bộ luật Hình sự quy định: Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bị phạt từ một năm đến năm năm.
Câu trả lời của bạn
Hậu quả mang thai sớm: Dê bị sảy thai, đẻ non, nhiễm độc thai, làm tăng nguy cơ tử vong mẹ. Do khung chậu phát triển chưa đẩy đủ nên khi sinh dễ phải can thiệp bằng thú thuật hoặc phẫu thuật. Làm mẹ quá trẻ, cơ thể phát triển chưa đầy đủ dễ dẫn đến thiêu máu, thai kém phát triển, dễ bị chết lưu. Tỉ lệ trẻ sinh ra thiêu cân, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ mắc bệnh và tử vong cao hơn nhiều so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai. Làm mẹ sớm dễ bị căng thẳng, khủng hoảng tâm lý, tốn thương tình cảm, dễ chán nản, cảm thấy cách biệt với gia đình và bạn bè. Bị bạn trai bỏ rơi hoặc phải cưới gâp với người mà mình không muôn có cam kết cuộc sông với người đó. Bản thân và gia đình phải gánh chịu những định kiến của xã hội. Gánh nặng về kinh tế khi nuôi con. Góp phần làm tăng chi phí xã hội, tăng dân sô’. Phá thai có thể đưa đến các tai biến: choáng, chảy máu, nhiễm trùng, thủng tử cung, vô sinh …
Hậu quả mang thai sớm:
Câu trả lời của bạn
ở rễ ,làm dâu,phong tục trọng nam khinh nữ
Phong tục cưới hỏi của vùng người Mông ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai Sa Pa là một huyện miền núi vùng cao nằm về phía tây bắc của tỉnh Lào Cai, diện tích tự nhiên lên đến 67.905 ha. Sa Pa có 6 dân tộc cùng chung sống như Mông, Dao, Kinh, Tày, Dáy, Xa Phó dải từ vùng hạ huyện, qua trung huyện đến thượng huyện với tổng dân số 35.427 người phân bố không đều ở 17 xã và thị trấn. Dân tộc Kinh chủ yếu cư trú tại thị trấn Sa Pa sống bằng nghề kinh doanh dịch vụ, các dân tộc khác chủ yếu cư trú ở các xã sống bằng nghề nông – lâm kết hợp. Một trong những nét đặc sắc tạo nên văn hóa của người Mông là các phong tục về cưới hỏi, hôn lễ. Phong tục hỏi vợ. Trong cuộc sống đời thường, chuyện dựng vợ gả chồng người nào, vùng nào cũng đều thận trọng bởi phần lớn những đám cưới này đều là một sự quyết định cho cả cuộc đời mỗi con người. Do đó người nào cũng coi việc cưới hỏi là một trong những việc lớn và quan trọng của đời người. Cho dù mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có những tập quán cưới hỏi khác nhau rất phong phú, đa dạng, nhưng ý nghĩ chủ đạo trong việc cưới hỏi đều giống nhau, việc cưới hỏi của vùng người Mông Sa Pa cũng không nằm ngoài suy nghĩ đó. Sự quan tâm của họ còn sâu sắc hơn, mỗi khi có trai gái trẻ yêu nhau say đắm, thề thốt sẽ cùng xây dựng tổ ấm chung sống đến đầu bạc răng long. Khi hai người yêu nhau và có thời gian tìm hiểu nhau vài ba năm tới lúc họ thực sự muốn tổ chức kết hôn thành vợ thành chồng của nhau, người con trai thổ lộ ý định của mình với cha mẹ, cha mẹ tìm hiểu ý định của con trai qua hội bạn của con mình, bàn bạc với chú bác cùng góp ý thận trọng tiến hành từng bước một. Tục nắm bắt thông tin. Qua vài lần hội ý thống nhất, nhà trai cử người thân thiết như bà cô, hay bà dì, hay chị gái, em gái của chàng trai, có khi là người mẹ chàng trai lấy cớ tới chơi thăm thú họ hàng người thân ở làng nhà gái chơi với mục đích ngầm theo dõi những hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, lối ứng xử giao tiếp của người con gái mà con trai nhà mình đã yêu. Ngoài ra còn thăm dò tin tức nhận xét đánh giá về nhân phẩm đạo đức, lối sống, tính tình của người con gái bên nhà gái qua hàng xóm láng giềng ở bản làng nhà gái. Khi đã có đầy đủ thông tin về nhà trai cung cấp lại toàn bộ thông tin mà tai nghe, mắt thấy cho chủ nhà trai, qua đó người chủ nhà bố của con trai mời bác chú đến cùng nhận xét đánh giá, cùng đưa ra nhận định chung: nếu như mọi người cùng chấp nhận thì bước tiếp theo được tiến hành, không chấp nhận thì buộc con trai từ bỏ ý định của mình. Tục bói số vợ chồng: Trong phong tục cưới hỏi của người Mông Sa Pa tục bói số hợp vợ, hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng, việc này quyết định cho sự thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin người con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm thủ tục bói số để đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà mình có hợp số mệnh không, có sống được cả đời tới khi già không. Tục bói số vợ chồng của vùng người Mông Sa Pa có hai hình thức khác nhau.Hình thức thứ nhất bói bằng hương: Khi bói người cha hay mẹ của con trai lấy ba nén hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn với ma trời, ma đất, đọc ngày tháng năm sinh, con gái thứ mấy của nhà gái với con trai nhà mình sau đó quay vào trong nhà đứng tại cột ma chính đọc lời cầu khấn một lần nữa, đọc xong họ cắm cả ba nén hương xuống gốc cột ma chính, họ theo dõi và đoán biết kết quả tốt xấu qua quá trình cháy của ba nén hương đó nếu ba nén hương cháy đều nhau đến hết là được. Nếu có một nén hương cháy ở độ cao hơn, hai nén cháy thấp hơn đều nhau là rất tốt nó biểu hiện nén hương cháy cao hơn là cha mẹ trụ cột gia đình, còn hai nén cháy thấp đều nhau là cô dâu, chú rể tâm đầu ý hợp sau này hai vợ chồng sẽ có lối sống kỷ cương, kính trên nhường dưới, sống lâu tới đầu bạc răng long… Cả ba nén hương cháy không đều nhau là xấu. Hình thức thứ hai bói bằng con gà: khi bói người ta bắt một con gà con tầm bẩy tám lạng hay một cân cùng với ba nén hương người cha hay mẹ bói đều được, người bói cầm con gà và hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn như đã nêu trên sau đó vào trong nhà đứng trước cột ma chính đọc lời cầu khấn như trên xong, người bói cắm ba nén hương xuống chân cột ma chính. Họ đem con gà bói đó cắt tiết tại trung tâm gian nhà chính thường thờ cúng tổ tiên khi con gà gần chết họ thả con gà xuống đất con gà dẫy nảy tứ tung, khi chết hẳn đầu quay về phía nào cũng được. Cách xem và đoán nhận biết biểu hiện tốt xấu: người bói thấy con gà chết quay đầu về hướng đông và hướng bắc họ cho là tốt, họ cho rằng nó biểu hiện ba điều tốt như sau: Điều thứ nhất: Nếu lấy là được người con gái đó sẽ đồng ý về làm dâu nhà mình không có ai cản trở, hồn vía nó đã về rồi. Điều thứ hai: Hai đứa con trai, con dâu có sự hướng thiện về phía ánh sáng mặt trời, đường đời sáng lạng trong tương lai. Điều thứ ba: Hai đứa đều có tính tôn ti trật tự tôn trọng bề trên quan tâm tổ tiên. Nếu con gà đó chết quay đầu về hướng tây, nam là biểu hiện không tốt. Theo quan điểm của người Hmông Sa Pa thì hướng tây là hướng tối, hướng nam là hướng tụt. Nếu biểu hiện như vậy thì việc cưới hỏi sẽ không được thực hiện. Qua việc tìm hiểu nắm bắt thông tin trên đi đôi với một trong hai tục bói số hợp vợ, chồng trên đây nhà trai cảm thấy hợp số mệnh giữa con trai nhà mình với người yêu thì các bước tổ chức sẽ được triển khai tiếp theo. * Phong tục kéo vợ. Truyền thống người Mông Sa Pa vốn rất tôn trọng nhau, nhất là phái nam tôn trọng phái nữ gần như mẫu hệ, phụ chủ đã ăn sâu vào tiềm thức con người nơi đây. Trong cuộc sống đời thường cái gì to cũng là của người mẹ kể từ chức quan, nhà cửa, ruộng nương… Ngược lại người mẹ, người vợ rất thương người cha, người chồng. Những hình ảnh người đàn ông say rượu nằm ngủ cạnh đường người phụ nữ cầm ô che nắng, tay dắt ngựa chở chồng về bản là một hình tượng đẹp chỉ có ở người Mông. Trong cưới hỏi người con gái được tôn trọng hơn, từ danh giá nhân phẩm cho đến đức tính quý phái của chị em với tính cách thương người thẳng thắn cương trực và tốt bụng của những chàng trai người Mông, hiện tượng yêu đương lăng nhăng, ly hôn ít xảy ra ở vùng này. Biểu hiện sự kết hôn luôn bền chặt, ít khi bị tráo trộn. Tục kéo vợ Tục kéo vợ là một biểu hiện rõ nét người Mông thường dùng từ kéo cô dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật cũng phải tổ chức kéo thì cô gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự bước chân về nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thể hiện sự danh giá của người con gái qua ba nghĩa chính: – Cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai. – Người con trai thực sự cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức của người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ thể. – Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược đãi sau này của người chồng và người nhà trai. * Chuẩn bị đi kéo vợ: Khi đã được nhà trai cho phép con trai được lấy vợ, cả nhà tập trung cùng lo, cho người đi mời phù dâu, phù rể, cô chú cùng đi giúp kéo vợ, đoàn người kéo vợ thường có ít nhất 5 người chính thức và một số người khác phụ giúp. Một cô gái trẻ chưa có chồng khác họ nhà trai làm phù dâu, một chàng trai khác họ với nhà trai chưa có vợ làm phù rể, một người anh hoặc bác ruột có hiểu biết cầm trịch, và chú rể chồng của cô dâu, một người thường là bà cô hay bà dì đại diện mẹ chú rể với một số bạn trai trẻ biết cách kéo vợ đi giúp chàng trai kéo vợ. Tiêu chí những người được chọn tham gia đoàn người kéo vợ gồm 3 tiêu chí chính: – Thứ nhất: Phù dâu, phù rể phải là người chưa có chồng, chưa có vợ, có lối sống đạo đức tốt, kính trên, nhường dưới, nói năng nhẹ nhàng có hiểu biết. – Thứ hai: Người cầm trịch và người nữ đại diện cho nhà trai là những người có vợ chồng, con cái đầy đủ (không goá vợ, goá chồng), làm ăn phát đạt sống có uy tín với bản làng. – Thứ ba: Tất cả số người này phải biết cách kéo vợ, bởi cách kéo vợ của người Hmông là cả nghệ thuật sống thực sự, chính cô gái bị kéo là người chịu ảnh hưởng lớn, nếu không biết cách kéo, khi kéo sẽ bị sứt đầu mẻ trán làm đau đớn cho người bị kéo, khi đôi co với người thân và cô gái bên nhà gái. Trước khi đi cả đoàn người hội ý thống nhất, khi đi chia theo tốp để tránh sự nghi ngờ của người khác. Con trai và phù rể đi trước, phù dâu và người đại diện mẹ nhà trai theo sau, người đàn ông cầm trịch nhà trai và tốp con trai đi kéo hộ đi sau cùng. Khi tới điểm hẹn nhà trai bố trí sẵn cho con trai mình hẹn gặp người yêu đến cùng tâm sự tại một địa điểm thuận lợi như đón đường nhà gái đi làm, đi chợ hay đi chơi xuân ngày tết… Mọi người nấp vào các bụi rậm hai bên đường để lại chàng trai và phù rể dạo bộ để đón gặp bạn gái, khi thấy người yêu xuất hiện thì chàng trai chủ động chào hỏi tán tỉnh giữ chân cô gái lại nói chuyện một lúc để cô gái không đề phòng nữa. – Bắt đầu kéo: Chàng trai tán tỉnh cô gái một lúc thấy thuận lợi, chàng trai tóm lấy tay cô gái nói: Lần này ta kéo nàng về làm vợ ta đây. Nói xong chàng trai giữ chặt lấy người yêu lại, những người kéo giúp sám vào hai người biết kéo tì vai vào nách cô gái, quẳng hai cánh tay vào vai của hai người kéo giữ chặt lại cứ thế nhấc bổng cô gái lên mà chạy về nhà chồng, kéo kiểu này là người biết cách kéo, không gây thương tích cho người bị kéo, chân người bị kéo không chạm đất, không có lực giằng co, không đánh trả được, mồm không thể cắn ai được. Hai người kéo cô gái đi một quãng xa thấy mệt thì hạ cô gái xuống và giữ chặt, hai người khác đến thay thế và đưa cô gái về đến nhà trai. Nếu như gặp phải sự phản ứng gay gắt của người nhà gái thì hội kéo cứ thế kéo cô dâu đi, để lại người cầm trịch hát đối đáp với người nhà gái, chú rể ở lại với người cầm trịch để tạ lỗi với người nhà gái, phù dâu, phù rể cùng cô dâu về nhà trước. Khi về đến gần nhà trai, đoàn người kéo vợ cử một người chạy trước về báo với những người chờ sẵn trong nhà như bố, mẹ hay các cô, chú của chú rể bắt một đôi gà, một gà mái tơ, một gà trống chưa gáy đợi sẵn ở cửa chính khi đoàn người kéo cô dâu về đến đó thì người đó làm lý gọi hồn. Lúc đoàn người về đến cửa thì chưa vội đưa cô dâu vào nhà, người ta giữ cô dâu, chú rể ở ngoài cửa chính, người làm lý đốt ba nén hương tay cầm đôi gà huơ huơ chân, cào cào từ đầu đến chân cô dâu, chú rể lẩm bẩm gọi hồn, xong xuôi mang gà mổ thịt làm cơm tiếp đãi đoàn người đi giúp kéo cô dâu. Trong bữa cơm này nhà trai mời một người có hiểu biết cùng ăn cơm, sau đó giúp nhà trai sang nhà gái báo tin cho nhà gái biết, nhà trai đã kéo được con gái họ về làm dâu nhà trai. Nhà trai mang lễ vật báo tin là một gói thuốc lá tự trồng, một sừng trâu rượu. Khi người báo tin đến nhà gái, nhà gái đi mời ông bác hay chú đến nhà đại diện cho nhà gái tiếp người báo tin. Người báo tin mời thuốc, mời rượu cho người đại diện nhà gái và cả những người có mặt trong nhà gái xong, người báo tin chính thức rót hai chén rượu đưa cho người đại diện nhà gái và dạm hỏi lễ vật mà nhà gái cần thách và thời gian để làm lễ cưới. Khi đã được nhà gái công bố các lễ vật xong, người báo tin về nhà trai báo lại toàn bộ sự việc các loại lễ vật cho nhà trai, thời gian để hai bên tổ chức lễ cưới. Từ khi kéo được cô dâu về, nhà trai bố trí cô dâu và phù dâu ngủ chung ba đêm, sáng thư ba giã bánh dầy đưa cô dâu về nhà lấy đồ thay. Đoàn người đi sang nhà cô dâu lấy đồ gồm cô dâu, chú rể, phù dâu, cha hay mẹ chú rể, khi đến nhà gái chú rể phải quỳ lậy tất cả các thành viên nhà gái để làm quen. Nhà gái tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa cơm này người đại diện nhà gái bà dì hay bà cô hỏi cô gái thật kỹ có thể chung sống cả đời với nhà trai được không? Khi đến nhà gái, cô gái vui vẻ trả lời và đồng ý về làm dâu nhà trai. Thấy vậy nhà gái yên tâm dọn đồ tư trang của cô gái cho cầm về nhà chồng bắt đầu một cuộc sống mới được ăn nằm chung như vợ chồng thật, mọi việc chuẩn bị cho đám cưới bắt đầu. Nếu như vừa đến nhà gái người con gái buồn rầu, khóc lóc van xin cha mẹ không muốn về nhà trai thì hôn nhân chấm rứt từ đó. Việc làm này gần như tạo điều kiện cho cô dâu tương lai được về sống thử với nhà trai trong thời gian ba ngày, nếu qua cảm nhận trong ba ngày đó được cô dâu chấp thuận thì cuộc sống làm dâu được chính thức bắt đầu diễn ra, nếu không coi như đã chấm dứt. Chọn ngày tổ chức đám cưới: Vào mùa đông – xuân chọn ngày thìn và các ngày khác trong tuần tuỳ theo sở thích của nhà trai, nhưng thường thì người ta trừ ngày lập xuân của năm đó (ngày có tiếng sấm đầu tiên của năm) và các ngày con giáp có tính độc ác như ngày dần, thân, ngọ… Các ngày mất của người thân trong hai nhà trai và gái. Vào mùa hè – thu thường bỏ ngày thìn. Người Mông cho rằng vào mùa này rồng hay tác oai, tác quái làm mưa làm gió, đám cưới chọn ngày này vợ chồng trẻ sống với nhau hay bị đảo lộn cuộc sống. Ban tổ chức lễ cưới. a) Bên nhà trai gồm có: – Một ông Trưởng ban người Mông gọi là “Txir tuôv minhx cungz”; – Một ông phó ban người Mông gọi là “Txir lưv minhx cungz”; – Chú rể; – Cô dâu; – Một cô phù dâu; – Một anh phù rể; – Một người dắt lợn một người thồ rượu, hai người này gọi là khách chuyển giao lễ vật (kruô xang tsax). Ngoài ra còn có người cha của chú rể đại diện chính cho nhà trai. b) Bên nhà gái gồm có: Hai ông trưởng, phó ban như nhà trai, một ông quan làng làm nhiệm vụ giữ trật tự đám cưới, những người thân quen hàng xóm láng giềng. – Tại nhà trai: Trước khi chuẩn bị đi sang nhà gái, nhà trai làm bữa cơm tiếp đãi những người trên, sau khi ăn cơm sáng xong, người nào vào việc nấy, người trưởng ban tổ chức đi trước, đến người phó ban, chú rể, cô dâu, phù rể, phù dâu sau đó là người dắt lợn, thồ rượu, đi đến nửa quãng đường mọi người chọn chỗ nghỉ ăn trưa lấy gà, xôi bẻ chia cho mỗi người một miếng thịt và nắm xôi ăn. Trước khi ăn ông trưởng ban tổ chức (Txir tuôv minhx cungz) làm lý đánh đuổi ma tà để cho mọi người đi đến nơi về đến chốn, để cho hai vợ chồng sau này không bị tà ma quấy rối để cho cha mẹ và cô dâu, chú rể sống hoà hợp. Sau khi ăn xong mọi người lại lên đường đi sang nhà gái, đây là một thủ tục trừ tà ma trong đám cưới mà đám cưới nào khi đi cũng làm, về cũng làm, không được bỏ qua. – Đến nhà gái: Đoàn người nhà trai đến nhà gái đều phải đi qua cửa chính, trưởng phó ban nhà trai vào trước, đeo sừng trâu rượu và ô vào treo đúng cột ma chính trong nhà gái, đầu sừng rượu quay vào trong, tiếp đến hai người chuyển lễ vật, tiếp đến cô dâu, chú rể và đến mọi người, khi ngồi yên vị, hai bên nhà trai, nhà gái mời thuốc, mời rượu nhau xong. Hai ông trưởng, phó ban nhà trai bắt đầu câu chuyện với hai ông trưởng, phó ban nhà gái, mở đầu câu chuyện, hai ông xin chén của nhà gái uống rượu tiếp theo kiểm chứng và bàn giao lễ vật mà bên nhà gái đã thách, định sẵn cho nhà trai từ trước, nếu mọi lễ vật đủ cả số lượng và chất lượng xong, sau khi giao đủ lễ vật cho hai ông trưởng, phó ban tổ chức nhà gái thì lễ cưới được tổ chức ngay. Nếu qua kiểm chứng mà lễ vật không đầy đủ thì hai bên bàn bạc gia hạn trả đủ. Gặp phải trường hợp này thì lễ cưới kéo dài thời gian hơn. Sau khi giao lễ vật cho nhà gái, hai ông ban tổ chức nhà gái giao cho những người giúp việc mang lợn đi mổ thịt, lễ cưới được thực hiện. Quy định loại mâm. Trong đám cưới người Mông, người ta phân ra hai loại mâm, loại mâm chính khách dành cho đàn ông thường có đặt danh như các ông trưởng, phó ban tổ chức của hai bên, quan làng, các vai vế có danh khác thường được bầy trước bàn thờ tổ tiên, thường sắp xếp chỗ ngồi từ cao xuống thấp, từ đông sang tây… Loại mâm phụ thường dành cho những người nữ chính khách hai bên và số khách tới dự bình thường bầy chỗ nào cũng được. Lệ ăn uống. Bốn ông chủ hôn đứng lên làm lý cảm ơn nhau, mời nhau uống rượu, mời nhau thức ăn, khi ăn hai người cầm bằng luôn đi lại sau lưng của khách, kiểm tra chén, bát lần lượt từ hai ông bố đến hết mọi người trên mâm, thấy trong chén người nào hết rượu, trong bát hết thịt thì rót tiếp lần thứ hai, chén ai còn ít rượu, bát còn ít thịt thì họ rót đầy rượu, gắp đầy thịt bắt phải ăn uống hết mới được rót tiếp. Sau ba lượt chén uống rượu ông chủ hôn nhà trai xin phép cả mâm cho chú rể và phù rể làm lý tạ ơn những người đến dự đám cưới. Nhà gái lấy một chiếc chiếu trải trước cửa chính chú rể và phù rể đứng cạnh chiếu hướng vào mâm cơm chính khách và bàn thờ nhà gái khi chủ hôn đọc lời: Cùng tổ tiên ma nhà lạy một lạy, lúc này chú rể, phù rể quỳ lạy một lần, đọc tiếp vế hai: Lại nhận diện, hai người lạy một lần. Việc này diễn ra hết những người có danh vế trong đám thì mọi người ăn cơm, sau bữa cơm số người nhà trai chuẩn bị ra về. Lúc này cả đám cưới rộn vang tiếng nói tiếng cười hát hò đưa đón dâu. Các anh em trai bên nhà gái thì ai cũng cầm bầu rượu, chén chúc trong tay nhằm làm quen và chúc mừng cho chú rể qua những bài hát đối đáp say đắm. Chị em phụ nữ cũng không kém, người nào cũng má hây hây đỏ tay cầm bầu rượu đi chúc mừng cô dâu. Bước tiếp theo là uống rượu thích (tới) nhà gái bố trí nam thanh nữ tú chưa vợ chưa chồng mỗi người một bầu rượu để uống với những người cùng trang lứa bên nhà trai. Những ông cụ bà cụ bảy tám mươi tuổi cũng cầm chén rượu thủ thỉ cất lên những câu hát thời còn trẻ. Cả đám cưới biến thành một cuộc đua tài ca hát của nhiều đối tượng khác nhau như một hội hát thực thụ, một cơ hội gặp gỡ làm quen kẽo dài mãi không ngừng. Kết luận Trong việc cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam ta rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều có lễ thức truyền thống tổ chức cưới hỏi từ lâu đời tồn tại trong cộng đồng dân tộc từng vùng miền. Tuy nhiên việc bảo tồn và duy trì những hình thức cưới hỏi này cho tới nay ít bền vững, do bản thân nó còn chứa đựng một số tập tục lạc hậu và sự đua đòi của một số ít người. Còn một số người hay buông lỏng sự quan tâm không gìn giữ và phát triển nó cho đời sau, đi đôi với việc kinh tế còn khó khăn vô hình chung các dân tộc mong muốn việc cưới hỏi đơn giản bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Hiện nay việc cưới hỏi của dân tộc các vùng miền gần giống nhau với cùng ý nghĩ ăn góp ăn trả. Đến dự đám cưới ai đến trước ăn trước, ai đến sau ăn sau vội vàng nộp phong bì xong về luôn, tình trạng này gần như diễn ra từ thành thị đến nông thôn. Tổ chức như vậy sẽ làm mất đi sinh hoạt văn hoá trong cưới hỏi, có nguy cơ đánh mất luôn giá trị văn hoá truyền thống trong cưới hỏi mà cha ông ta đã dày công gây dựng nên. Trong việc cưới hỏi của người Mông Sa Pa ít nhiều cũng bị ảnh hưởng như trên, may thay họ vẫn còn lưu giữ được. Sa Pa là vùng du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. Du lịch phát triển, truyền thống văn hoá các dân tộc được coi trọng, văn hoá cưới hỏi, phong tục kéo vợ được đưa ra thành những chương trình biểu diễn sinh hoạt văn hoá chợ là một hình thức đặc biệt còn nguyên bản sắc văn hoá riêng của người Mông vùng Sa Pa mà ít nơi nào còn tồn tại.
thờ cúng tổ tiên
tảo mộ ngày tết
Phong tục cưới hỏi của vùng người Mông ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai
Sa Pa là một huyện miền núi vùng cao nằm về phía tây bắc của tỉnh Lào Cai, diện tích tự nhiên lên đến 67.905 ha. Sa Pa có 6 dân tộc cùng chung sống như Mông, Dao, Kinh, Tày, Dáy, Xa Phó dải từ vùng hạ huyện, qua trung huyện đến thượng huyện với tổng dân số 35.427 người phân bố không đều ở 17 xã và thị trấn. Dân tộc Kinh chủ yếu cư trú tại thị trấn Sa Pa sống bằng nghề kinh doanh dịch vụ, các dân tộc khác chủ yếu cư trú ở các xã sống bằng nghề nông – lâm kết hợp. Một trong những nét đặc sắc tạo nên văn hóa của người Mông là các phong tục về cưới hỏi, hôn lễ.
Phong tục hỏi vợ.
Trong cuộc sống đời thường, chuyện dựng vợ gả chồng người nào, vùng nào cũng đều thận trọng bởi phần lớn những đám cưới này đều là một sự quyết định cho cả cuộc đời mỗi con người. Do đó người nào cũng coi việc cưới hỏi là một trong những việc lớn và quan trọng của đời người. Cho dù mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có những tập quán cưới hỏi khác nhau rất phong phú, đa dạng, nhưng ý nghĩ chủ đạo trong việc cưới hỏi đều giống nhau, việc cưới hỏi của vùng người Mông Sa Pa cũng không nằm ngoài suy nghĩ đó. Sự quan tâm của họ còn sâu sắc hơn, mỗi khi có trai gái trẻ yêu nhau say đắm, thề thốt sẽ cùng xây dựng tổ ấm chung sống đến đầu bạc răng long. Khi hai người yêu nhau và có thời gian tìm hiểu nhau vài ba năm tới lúc họ thực sự muốn tổ chức kết hôn thành vợ thành chồng của nhau, người con trai thổ lộ ý định của mình với cha mẹ, cha mẹ tìm hiểu ý định của con trai qua hội bạn của con mình, bàn bạc với chú bác cùng góp ý thận trọng tiến hành từng bước một.
Tục nắm bắt thông tin.
Qua vài lần hội ý thống nhất, nhà trai cử người thân thiết như bà cô, hay bà dì, hay chị gái, em gái của chàng trai, có khi là người mẹ chàng trai lấy cớ tới chơi thăm thú họ hàng người thân ở làng nhà gái chơi với mục đích ngầm theo dõi những hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, lối ứng xử giao tiếp của người con gái mà con trai nhà mình đã yêu. Ngoài ra còn thăm dò tin tức nhận xét đánh giá về nhân phẩm đạo đức, lối sống, tính tình của người con gái bên nhà gái qua hàng xóm láng giềng ở bản làng nhà gái. Khi đã có đầy đủ thông tin về nhà trai cung cấp lại toàn bộ thông tin mà tai nghe, mắt thấy cho chủ nhà trai, qua đó người chủ nhà bố của con trai mời bác chú đến cùng nhận xét đánh giá, cùng đưa ra nhận định chung: nếu như mọi người cùng chấp nhận thì bước tiếp theo được tiến hành, không chấp nhận thì buộc con trai từ bỏ ý định của mình.
Tục bói số vợ chồng:
Trong phong tục cưới hỏi của người Mông Sa Pa tục bói số hợp vợ, hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng, việc này quyết định cho sự thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin người con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm thủ tục bói số để đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà mình có hợp số mệnh không, có sống được cả đời tới khi già không.
Tục bói số vợ chồng của vùng người Mông Sa Pa có hai hình thức khác nhau.Hình thức thứ nhất bói bằng hương: Khi bói người cha hay mẹ của con trai lấy ba nén hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn với ma trời, ma đất, đọc ngày tháng năm sinh, con gái thứ mấy của nhà gái với con trai nhà mình sau đó quay vào trong nhà đứng tại cột ma chính đọc lời cầu khấn một lần nữa, đọc xong họ cắm cả ba nén hương xuống gốc cột ma chính, họ theo dõi và đoán biết kết quả tốt xấu qua quá trình cháy của ba nén hương đó nếu ba nén hương cháy đều nhau đến hết là được. Nếu có một nén hương cháy ở độ cao hơn, hai nén cháy thấp hơn đều nhau là rất tốt nó biểu hiện nén hương cháy cao hơn là cha mẹ trụ cột gia đình, còn hai nén cháy thấp đều nhau là cô dâu, chú rể tâm đầu ý hợp sau này hai vợ chồng sẽ có lối sống kỷ cương, kính trên nhường dưới, sống lâu tới đầu bạc răng long… Cả ba nén hương cháy không đều nhau là xấu. Hình thức thứ hai bói bằng con gà: khi bói người ta bắt một con gà con tầm bẩy tám lạng hay một cân cùng với ba nén hương người cha hay mẹ bói đều được, người bói cầm con gà và hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn như đã nêu trên sau đó vào trong nhà đứng trước cột ma chính đọc lời cầu khấn như trên xong, người bói cắm ba nén hương xuống chân cột ma chính. Họ đem con gà bói đó cắt tiết tại trung tâm gian nhà chính thường thờ cúng tổ tiên khi con gà gần chết họ thả con gà xuống đất con gà dẫy nảy tứ tung, khi chết hẳn đầu quay về phía nào cũng được. Cách xem và đoán nhận biết biểu hiện tốt xấu: người bói thấy con gà chết quay đầu về hướng đông và hướng bắc họ cho là tốt, họ cho rằng nó biểu hiện ba điều tốt như sau:
Điều thứ nhất: Nếu lấy là được người con gái đó sẽ đồng ý về làm dâu nhà mình không có ai cản trở, hồn vía nó đã về rồi.
Điều thứ hai: Hai đứa con trai, con dâu có sự hướng thiện về phía ánh sáng mặt trời, đường đời sáng lạng trong tương lai.
Điều thứ ba: Hai đứa đều có tính tôn ti trật tự tôn trọng bề trên quan tâm tổ tiên. Nếu con gà đó chết quay đầu về hướng tây, nam là biểu hiện không tốt. Theo quan điểm của người Hmông Sa Pa thì hướng tây là hướng tối, hướng nam là hướng tụt. Nếu biểu hiện như vậy thì việc cưới hỏi sẽ không được thực hiện.
Qua việc tìm hiểu nắm bắt thông tin trên đi đôi với một trong hai tục bói số hợp vợ, chồng trên đây nhà trai cảm thấy hợp số mệnh giữa con trai nhà mình với người yêu thì các bước tổ chức sẽ được triển khai tiếp theo.
* Phong tục kéo vợ.
Truyền thống người Mông Sa Pa vốn rất tôn trọng nhau, nhất là phái nam tôn trọng phái nữ gần như mẫu hệ, phụ chủ đã ăn sâu vào tiềm thức con người nơi đây. Trong cuộc sống đời thường cái gì to cũng là của người mẹ kể từ chức quan, nhà cửa, ruộng nương… Ngược lại người mẹ, người vợ rất thương người cha, người chồng. Những hình ảnh người đàn ông say rượu nằm ngủ cạnh đường người phụ nữ cầm ô che nắng, tay dắt ngựa chở chồng về bản là một hình tượng đẹp chỉ có ở người Mông. Trong cưới hỏi người con gái được tôn trọng hơn, từ danh giá nhân phẩm cho đến đức tính quý phái của chị em với tính cách thương người thẳng thắn cương trực và tốt bụng của những chàng trai người Mông, hiện tượng yêu đương lăng nhăng, ly hôn ít xảy ra ở vùng này. Biểu hiện sự kết hôn luôn bền chặt, ít khi bị tráo trộn.
Tục kéo vợ
Tục kéo vợ là một biểu hiện rõ nét người Mông thường dùng từ kéo cô dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm đuối, từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật cũng phải tổ chức kéo thì cô gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào tự bước chân về nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thể hiện sự danh giá của người con gái qua ba nghĩa chính:
– Cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay theo con trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai.
– Người con trai thực sự cần lấy cô gái làm vợ thật với thiên chức của người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ thể.
– Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược đãi sau này của người chồng và người nhà trai.
* Chuẩn bị đi kéo vợ: Khi đã được nhà trai cho phép con trai được lấy vợ, cả nhà tập trung cùng lo, cho người đi mời phù dâu, phù rể, cô chú cùng đi giúp kéo vợ, đoàn người kéo vợ thường có ít nhất 5 người chính thức và một số người khác phụ giúp. Một cô gái trẻ chưa có chồng khác họ nhà trai làm phù dâu, một chàng trai khác họ với nhà trai chưa có vợ làm phù rể, một người anh hoặc bác ruột có hiểu biết cầm trịch, và chú rể chồng của cô dâu, một người thường là bà cô hay bà dì đại diện mẹ chú rể với một số bạn trai trẻ biết cách kéo vợ đi giúp chàng trai kéo vợ. Tiêu chí những người được chọn tham gia đoàn người kéo vợ gồm 3 tiêu chí chính:
– Thứ nhất: Phù dâu, phù rể phải là người chưa có chồng, chưa có vợ, có lối sống đạo đức tốt, kính trên, nhường dưới, nói năng nhẹ nhàng có hiểu biết.
– Thứ hai: Người cầm trịch và người nữ đại diện cho nhà trai là những người có vợ chồng, con cái đầy đủ (không goá vợ, goá chồng), làm ăn phát đạt sống có uy tín với bản làng.
– Thứ ba: Tất cả số người này phải biết cách kéo vợ, bởi cách kéo vợ của người Hmông là cả nghệ thuật sống thực sự, chính cô gái bị kéo là người chịu ảnh hưởng lớn, nếu không biết cách kéo, khi kéo sẽ bị sứt đầu mẻ trán làm đau đớn cho người bị kéo, khi đôi co với người thân và cô gái bên nhà gái.
Trước khi đi cả đoàn người hội ý thống nhất, khi đi chia theo tốp để tránh sự nghi ngờ của người khác. Con trai và phù rể đi trước, phù dâu và người đại diện mẹ nhà trai theo sau, người đàn ông cầm trịch nhà trai và tốp con trai đi kéo hộ đi sau cùng. Khi tới điểm hẹn nhà trai bố trí sẵn cho con trai mình hẹn gặp người yêu đến cùng tâm sự tại một địa điểm thuận lợi như đón đường nhà gái đi làm, đi chợ hay đi chơi xuân ngày tết… Mọi người nấp vào các bụi rậm hai bên đường để lại chàng trai và phù rể dạo bộ để đón gặp bạn gái, khi thấy người yêu xuất hiện thì chàng trai chủ động chào hỏi tán tỉnh giữ chân cô gái lại nói chuyện một lúc để cô gái không đề phòng nữa.
– Bắt đầu kéo: Chàng trai tán tỉnh cô gái một lúc thấy thuận lợi, chàng trai tóm lấy tay cô gái nói: Lần này ta kéo nàng về làm vợ ta đây. Nói xong chàng trai giữ chặt lấy người yêu lại, những người kéo giúp sám vào hai người biết kéo tì vai vào nách cô gái, quẳng hai cánh tay vào vai của hai người kéo giữ chặt lại cứ thế nhấc bổng cô gái lên mà chạy về nhà chồng, kéo kiểu này là người biết cách kéo, không gây thương tích cho người bị kéo, chân người bị kéo không chạm đất, không có lực giằng co, không đánh trả được, mồm không thể cắn ai được. Hai người kéo cô gái đi một quãng xa thấy mệt thì hạ cô gái xuống và giữ chặt, hai người khác đến thay thế và đưa cô gái về đến nhà trai.
Nếu như gặp phải sự phản ứng gay gắt của người nhà gái thì hội kéo cứ thế kéo cô dâu đi, để lại người cầm trịch hát đối đáp với người nhà gái, chú rể ở lại với người cầm trịch để tạ lỗi với người nhà gái, phù dâu, phù rể cùng cô dâu về nhà trước. Khi về đến gần nhà trai, đoàn người kéo vợ cử một người chạy trước về báo với những người chờ sẵn trong nhà như bố, mẹ hay các cô, chú của chú rể bắt một đôi gà, một gà mái tơ, một gà trống chưa gáy đợi sẵn ở cửa chính khi đoàn người kéo cô dâu về đến đó thì người đó làm lý gọi hồn. Lúc đoàn người về đến cửa thì chưa vội đưa cô dâu vào nhà, người ta giữ cô dâu, chú rể ở ngoài cửa chính, người làm lý đốt ba nén hương tay cầm đôi gà huơ huơ chân, cào cào từ đầu đến chân cô dâu, chú rể lẩm bẩm gọi hồn, xong xuôi mang gà mổ thịt làm cơm tiếp đãi đoàn người đi giúp kéo cô dâu. Trong bữa cơm này nhà trai mời một người có hiểu biết cùng ăn cơm, sau đó giúp nhà trai sang nhà gái báo tin cho nhà gái biết, nhà trai đã kéo được con gái họ về làm dâu nhà trai. Nhà trai mang lễ vật báo tin là một gói thuốc lá tự trồng, một sừng trâu rượu. Khi người báo tin đến nhà gái, nhà gái đi mời ông bác hay chú đến nhà đại diện cho nhà gái tiếp người báo tin. Người báo tin mời thuốc, mời rượu cho người đại diện nhà gái và cả những người có mặt trong nhà gái xong, người báo tin chính thức rót hai chén rượu đưa cho người đại diện nhà gái và dạm hỏi lễ vật mà nhà gái cần thách và thời gian để làm lễ cưới. Khi đã được nhà gái công bố các lễ vật xong, người báo tin về nhà trai báo lại toàn bộ sự việc các loại lễ vật cho nhà trai, thời gian để hai bên tổ chức lễ cưới.
Từ khi kéo được cô dâu về, nhà trai bố trí cô dâu và phù dâu ngủ chung ba đêm, sáng thư ba giã bánh dầy đưa cô dâu về nhà lấy đồ thay. Đoàn người đi sang nhà cô dâu lấy đồ gồm cô dâu, chú rể, phù dâu, cha hay mẹ chú rể, khi đến nhà gái chú rể phải quỳ lậy tất cả các thành viên nhà gái để làm quen. Nhà gái tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa cơm này người đại diện nhà gái bà dì hay bà cô hỏi cô gái thật kỹ có thể chung sống cả đời với nhà trai được không? Khi đến nhà gái, cô gái vui vẻ trả lời và đồng ý về làm dâu nhà trai. Thấy vậy nhà gái yên tâm dọn đồ tư trang của cô gái cho cầm về nhà chồng bắt đầu một cuộc sống mới được ăn nằm chung như vợ chồng thật, mọi việc chuẩn bị cho đám cưới bắt đầu. Nếu như vừa đến nhà gái người con gái buồn rầu, khóc lóc van xin cha mẹ không muốn về nhà trai thì hôn nhân chấm rứt từ đó.
Việc làm này gần như tạo điều kiện cho cô dâu tương lai được về sống thử với nhà trai trong thời gian ba ngày, nếu qua cảm nhận trong ba ngày đó được cô dâu chấp thuận thì cuộc sống làm dâu được chính thức bắt đầu diễn ra, nếu không coi như đã chấm dứt.
Chọn ngày tổ chức đám cưới:
Vào mùa đông – xuân chọn ngày thìn và các ngày khác trong tuần tuỳ theo sở thích của nhà trai, nhưng thường thì người ta trừ ngày lập xuân của năm đó (ngày có tiếng sấm đầu tiên của năm) và các ngày con giáp có tính độc ác như ngày dần, thân, ngọ… Các ngày mất của người thân trong hai nhà trai và gái.
Vào mùa hè – thu thường bỏ ngày thìn. Người Mông cho rằng vào mùa này rồng hay tác oai, tác quái làm mưa làm gió, đám cưới chọn ngày này vợ chồng trẻ sống với nhau hay bị đảo lộn cuộc sống.
Ban tổ chức lễ cưới.
a) Bên nhà trai gồm có:
– Một ông Trưởng ban người Mông gọi là “Txir tuôv minhx cungz”;
– Một ông phó ban người Mông gọi là “Txir lưv minhx cungz”;
– Chú rể;
– Cô dâu;
– Một cô phù dâu;
– Một anh phù rể;
– Một người dắt lợn một người thồ rượu, hai người này gọi là khách chuyển giao lễ vật (kruô xang tsax).
Ngoài ra còn có người cha của chú rể đại diện chính cho nhà trai.
b) Bên nhà gái gồm có: Hai ông trưởng, phó ban như nhà trai, một ông quan làng làm nhiệm vụ giữ trật tự đám cưới, những người thân quen hàng xóm láng giềng.
– Tại nhà trai:
Trước khi chuẩn bị đi sang nhà gái, nhà trai làm bữa cơm tiếp đãi những người trên, sau khi ăn cơm sáng xong, người nào vào việc nấy, người trưởng ban tổ chức đi trước, đến người phó ban, chú rể, cô dâu, phù rể, phù dâu sau đó là người dắt lợn, thồ rượu, đi đến nửa quãng đường mọi người chọn chỗ nghỉ ăn trưa lấy gà, xôi bẻ chia cho mỗi người một miếng thịt và nắm xôi ăn. Trước khi ăn ông trưởng ban tổ chức (Txir tuôv minhx cungz) làm lý đánh đuổi ma tà để cho mọi người đi đến nơi về đến chốn, để cho hai vợ chồng sau này không bị tà ma quấy rối để cho cha mẹ và cô dâu, chú rể sống hoà hợp. Sau khi ăn xong mọi người lại lên đường đi sang nhà gái, đây là một thủ tục trừ tà ma trong đám cưới mà đám cưới nào khi đi cũng làm, về cũng làm, không được bỏ qua.
– Đến nhà gái:
Đoàn người nhà trai đến nhà gái đều phải đi qua cửa chính, trưởng phó ban nhà trai vào trước, đeo sừng trâu rượu và ô vào treo đúng cột ma chính trong nhà gái, đầu sừng rượu quay vào trong, tiếp đến hai người chuyển lễ vật, tiếp đến cô dâu, chú rể và đến mọi người, khi ngồi yên vị, hai bên nhà trai, nhà gái mời thuốc, mời rượu nhau xong. Hai ông trưởng, phó ban nhà trai bắt đầu câu chuyện với hai ông trưởng, phó ban nhà gái, mở đầu câu chuyện, hai ông xin chén của nhà gái uống rượu tiếp theo kiểm chứng và bàn giao lễ vật mà bên nhà gái đã thách, định sẵn cho nhà trai từ trước, nếu mọi lễ vật đủ cả số lượng và chất lượng xong, sau khi giao đủ lễ vật cho hai ông trưởng, phó ban tổ chức nhà gái thì lễ cưới được tổ chức ngay. Nếu qua kiểm chứng mà lễ vật không đầy đủ thì hai bên bàn bạc gia hạn trả đủ. Gặp phải trường hợp này thì lễ cưới kéo dài thời gian hơn.
Sau khi giao lễ vật cho nhà gái, hai ông ban tổ chức nhà gái giao cho những người giúp việc mang lợn đi mổ thịt, lễ cưới được thực hiện.
Quy định loại mâm.
Trong đám cưới người Mông, người ta phân ra hai loại mâm, loại mâm chính khách dành cho đàn ông thường có đặt danh như các ông trưởng, phó ban tổ chức của hai bên, quan làng, các vai vế có danh khác thường được bầy trước bàn thờ tổ tiên, thường sắp xếp chỗ ngồi từ cao xuống thấp, từ đông sang tây… Loại mâm phụ thường dành cho những người nữ chính khách hai bên và số khách tới dự bình thường bầy chỗ nào cũng được.
Lệ ăn uống.
Bốn ông chủ hôn đứng lên làm lý cảm ơn nhau, mời nhau uống rượu, mời nhau thức ăn, khi ăn hai người cầm bằng luôn đi lại sau lưng của khách, kiểm tra chén, bát lần lượt từ hai ông bố đến hết mọi người trên mâm, thấy trong chén người nào hết rượu, trong bát hết thịt thì rót tiếp lần thứ hai, chén ai còn ít rượu, bát còn ít thịt thì họ rót đầy rượu, gắp đầy thịt bắt phải ăn uống hết mới được rót tiếp. Sau ba lượt chén uống rượu ông chủ hôn nhà trai xin phép cả mâm cho chú rể và phù rể làm lý tạ ơn những người đến dự đám cưới. Nhà gái lấy một chiếc chiếu trải trước cửa chính chú rể và phù rể đứng cạnh chiếu hướng vào mâm cơm chính khách và bàn thờ nhà gái khi chủ hôn đọc lời: Cùng tổ tiên ma nhà lạy một lạy, lúc này chú rể, phù rể quỳ lạy một lần, đọc tiếp vế hai: Lại nhận diện, hai người lạy một lần. Việc này diễn ra hết những người có danh vế trong đám thì mọi người ăn cơm, sau bữa cơm số người nhà trai chuẩn bị ra về. Lúc này cả đám cưới rộn vang tiếng nói tiếng cười hát hò đưa đón dâu. Các anh em trai bên nhà gái thì ai cũng cầm bầu rượu, chén chúc trong tay nhằm làm quen và chúc mừng cho chú rể qua những bài hát đối đáp say đắm. Chị em phụ nữ cũng không kém, người nào cũng má hây hây đỏ tay cầm bầu rượu đi chúc mừng cô dâu. Bước tiếp theo là uống rượu thích (tới) nhà gái bố trí nam thanh nữ tú chưa vợ chưa chồng mỗi người một bầu rượu để uống với những người cùng trang lứa bên nhà trai. Những ông cụ bà cụ bảy tám mươi tuổi cũng cầm chén rượu thủ thỉ cất lên những câu hát thời còn trẻ. Cả đám cưới biến thành một cuộc đua tài ca hát của nhiều đối tượng khác nhau như một hội hát thực thụ, một cơ hội gặp gỡ làm quen kẽo dài mãi không ngừng.
Kết luận
Trong việc cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam ta rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều có lễ thức truyền thống tổ chức cưới hỏi từ lâu đời tồn tại trong cộng đồng dân tộc từng vùng miền. Tuy nhiên việc bảo tồn và duy trì những hình thức cưới hỏi này cho tới nay ít bền vững, do bản thân nó còn chứa đựng một số tập tục lạc hậu và sự đua đòi của một số ít người. Còn một số người hay buông lỏng sự quan tâm không gìn giữ và phát triển nó cho đời sau, đi đôi với việc kinh tế còn khó khăn vô hình chung các dân tộc mong muốn việc cưới hỏi đơn giản bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Hiện nay việc cưới hỏi của dân tộc các vùng miền gần giống nhau với cùng ý nghĩ ăn góp ăn trả. Đến dự đám cưới ai đến trước ăn trước, ai đến sau ăn sau vội vàng nộp phong bì xong về luôn, tình trạng này gần như diễn ra từ thành thị đến nông thôn. Tổ chức như vậy sẽ làm mất đi sinh hoạt văn hoá trong cưới hỏi, có nguy cơ đánh mất luôn giá trị văn hoá truyền thống trong cưới hỏi mà cha ông ta đã dày công gây dựng nên.
Trong việc cưới hỏi của người Mông Sa Pa ít nhiều cũng bị ảnh hưởng như trên, may thay họ vẫn còn lưu giữ được. Sa Pa là vùng du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước. Du lịch phát triển, truyền thống văn hoá các dân tộc được coi trọng, văn hoá cưới hỏi, phong tục kéo vợ được đưa ra thành những chương trình biểu diễn sinh hoạt văn hoá chợ là một hình thức đặc biệt còn nguyên bản sắc văn hoá riêng của người Mông vùng Sa Pa mà ít nơi nào còn tồn tại.
Độ tuổi được phép kết hôn theo quy định của pháp luật hiện hành đối với nam, nữ là?
Câu trả lời của bạn
Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Theo quy định pháp luật hiện nay, nam, nữ kết hôn với nhau phải đáp ứng được điều kiện về độ tuổi như sau: nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Cách tính tuổi “đủ 20 tuổi” hay “đủ 18 tuổi” trong quy định về độ tuổi đăng ký kết hôn là tính theo tròn tuổi (đủ ngày, đủ tháng, đủ năm).
Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Câu thành ngữ "Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn" có ý nghĩa gì?
Câu trả lời của bạn
Vợ chồng đưa ra được thống nhất chung, cùng nhau giải quyết được công việc.
Vợ chồng đưa ra được thống nhất chung, cùng nhau giải quyết được công việc.
Câu trả lời của bạn
Tại sao nói kết hôn sớm thì cha mẹ sẽ không thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với con cái
Câu trả lời của bạn
Kết hôn sớm, hầu hết các cặp vc còn trẻ, còn chưa đủ chín chắn, chưa biết lo nghĩ tới tương lai,chưa có vc lm ổn định nên vấn đề về KT khó khăn. Mà 1 cuộc hôn nhân đc duy trì lâu dài k chỉ có ty mà còn có cả sự góp mặt của các nhân tố: vc lm,gđ,con cái,nhà cửa,xe cộ,sự sẻ chia,lo lắng....Những cặp vc còn trẻ ắt hẳn sẽ thiếu 1 trong những nhân tố này, dẫn tới 1 cuộc hôn nhân dần tan vỡ, nên các bậc cha,mẹ sẽ k lm tốt trách nhiệm của mk vs con.
1. Tại sao nói tình yêu là cơ sở của hôn nhân? 2. Tại sao nhà nước lại quy định các mức thuế khác nhau?
Câu trả lời của bạn
Vì tình yêu là sự gần gũi, hiểu biết lẫn nhau, đồng cảm, thông cảm cho nhau đồng thời sống vì nhau và sẵn sàng hi sinh cuộc sồng của mình
2.Vì nhà nước sử dụng thuế như một công cụ điều tiết ngành kinh tế
+Những mặt hàng cần cho đời sống, quan trọng đối với người dân thì giảm thuế để kích thích phát triển
+ Những mặt hàng không có lợi cho sự phát triển hoặc không ảnh hưởng nhiều đến đời sống của người dân thì tăng thuế để kiểm soát, hạn chế sự phát triển của nó
Theo suy nghĩ của em, tình yêu là gì?
p/s: GDCD 9, aj hk tl đk thì đừng zô chửi bậy.
Câu trả lời của bạn
Hôn nhân là gì ? Tác hại của việc kết hôn sớm là gì ?
Câu trả lời của bạn
có nên yêu sớm ở tuổi học trò không? vì sao?
Câu trả lời của bạn
hậu quả của việc tảo hôn
Câu trả lời của bạn
hậu quả :
- đối vs người tảo hôn:lấy vợ,lấy chồng sớm ,sức khỏe không đảm bảo,phải sống xa gia đình,không có người chăm sóc,không có đủ khả năng lo cho cuộc sống của gia đình mình,hạnh phúc dễ tan vỡ
- đối với cộng đồng: hiện tượng tảo hôn là vi phạm pháp luật về hôn nhân,ảnh hưởng xấu đến cộng đồng
- đối với gia đình:gánh nặng lớn cho gia đình
đó là ý kiến của mk thui,bn tham khảo nha
tảo hôn là gì?
Câu trả lời của bạn
-Tảo hôn là trường hợp kết hôn trong đó cô dâu và chú rể hoặc một trong hai người là trẻ em hoặc là người chưa đến tuổi kết hôn. Tập tục tảo hôn trước đây có mặt ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả châu Âu, nay còn tồn tại ở một số vùng thuộc châu Phi, châu Á, châu Đại Dương và Nam Mỹ.
Không biết...
Cái này không qt nê không cần trả lời làm chi cho mệt
Muốn biết thì dzô VVidipedia - Tảo hôn nha!!!!
Mất thì giờ của người ta
(....Tóm lại là thôi....)
Ngủ nghỉ sớm cho đời nó thanh thản, kk
Có những hình thức lao động nào? Lấy ví dụ minh họa
Câu trả lời của bạn
Có những hình thức lao động nào? Lấy ví dụ minh họa.
Các hình thức của lao động: Lao động cụ thể và lao động trừu tượng
+ Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
+ Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung. Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng mang phạm trù lịch sử.
Ví dụ :-Em đã lao động trong học tập :làm các bài tập thầy cô giáo,tham gia nhiều hoạt động trường lớp.....
- Phụ giúp cha mẹ các công việc nhà,những công việc vừa sức...
- Giúp hàng xóm láng giềng nhiều việc....
- Làm thêm 1 số việc : làm bài trên mạng....
1 hoc sinh vi phạm nội quy có danh dự hay không?Vì sao?
Câu trả lời của bạn
ý kiến riêng của mk nhé :
bạn học sinh vi phạm nội quy cũnglà 1 người có danh dự . Bởi vi phạm nội quy cũng chính là vi phạm kỉ luật , vì thiếu ý thức nên bạn học sinh đó đã vi phạm nội quy chung như vậy ta có thể thấy về mặt nhận thức cơ bản bạn đó chưa thể thống nhất suy nghĩ và hành động nên nhất thời có thể có những sai phạm . Các bạn và mọi người xung quanh không nên vì vậy mà xa lánh , kì thị hay cô lập bạn ấy mà ngược lại cần giúp đỡ và khuyên nhủ để giúp bạn ấy hiểu và coa cơ hội sửa chữa.
ý kiến riêng , bạn xem có đúng k nha
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *