Học 247 giới thiệu đến các em bài học Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 giúp các em tìm hiểu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta từ khi Pháp nổ phát súng đầu tiên tấn công ta ở Đà Nẵng đến năm 1873 như thế nào? Qua đó các em sẽ đánh giá được thái độ của triều đình và nhân dân ta như thế nào trước quân Pháp xâm lược, và các em sẽ có cái nhìn khách quan về lịch sử Việt Nam.
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 8 Bài 24 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Thực dân Pháp chính thức đổ bộ xâm lược nước ta vào thời gian nào?
Ai đã chỉ huy quân dân ta anh dũng chống trả trước cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng?
Trận Đà Nẵng có kết quả như thế nào?
Tháng 2 - 1859 Pháp quyết định đem phần lớn lực lượng đánh ở đâu?
Ngày 24-2-1861, diễn ra sự kiện lịch sử gì ở Nam Bộ?
Trung tâm hệ thống chiến lũy Chí Hòa do ai trấn giữ?
Ngày 17-2-1859, Pháp tấn công vào đâu?
Câu 8-20: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 8 Bài 24để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận 1 trang 115 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận 2 trang 115 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận 3 trang 115 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận trang 116 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận trang 117 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận 1 trang 119 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập Thảo luận 2 trang 119 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập 1 trang 119 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập 2 trang 119 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập 3 trang 119 SGK Lịch sử 8 Bài 24
Bài tập 1.1 trang 84 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.2 trang 84 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.3 trang 84 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.4 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.5 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.6 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.7 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.8 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 1.9 trang 85 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 2 trang 86 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 3 trang 86 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 4 trang 86 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 5 trang 87 SBT Lịch Sử 8
Bài tập 6 trang 87 SBT Lịch Sử 8
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 8 DapAnHay
Thực dân Pháp chính thức đổ bộ xâm lược nước ta vào thời gian nào?
Ai đã chỉ huy quân dân ta anh dũng chống trả trước cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng?
Trận Đà Nẵng có kết quả như thế nào?
Tháng 2 - 1859 Pháp quyết định đem phần lớn lực lượng đánh ở đâu?
Ngày 24-2-1861, diễn ra sự kiện lịch sử gì ở Nam Bộ?
Trung tâm hệ thống chiến lũy Chí Hòa do ai trấn giữ?
Ngày 17-2-1859, Pháp tấn công vào đâu?
Triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất vào ngày tháng năm nào?
Ngày 20-6-1867, quân Pháp kéo đến trước thành Vĩnh Long, ép ai phải nộp thành không điều kiện?
Theo Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình Nguyễn thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở đâu?
Theo Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình Huế đồng ý mở ba cửa biển nào cho Pháp vào buôn bán?
Ai đã được nhân dân tôn làm Bình Tây đại nguyên soái?
Sau Hiệp ước Nhâm Tuất triều đình đã có hành động gì?
Tháng 6 - 1867, quân Pháp không tốn một viên đạn đã chiếm ba tỉnh nào?
Nhiều người đã dùng thơ văn để chiến đấu chống giặc như:
Hai lần bị giặc bắt, được thả ra ông lại tiếp tục chống Pháp. Khi bị đưa đi hành hình ông vẫn ung dung làm thơ. Ông là ai?
Câu nói: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” là của ai?
Vì sao thực dân Pháp dễ dàng chiếm nốt ba tỉnh miền Tây?
Sau Hiệp ước Nhâm Tuất 1862, tính chất cuộc kháng chiến của nhân dân ta bao hàm những nhiệm vụ nào?
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống Pháp ở Nam Kì thất bại ?
Tại sao thực dân Pháp xâm lược nước ta?
Bước đầu quân Pháp đã bị thất bại như thế nào?
Em có nhận xét gì về thái độ chống quân Pháp xâm lược của triều đình Huế?
Nêu nội dung cơ bản của Hiệp ước 5-6-1862.
Nhân dân ta đã anh dũng kháng chiến chống Pháp như thế nào?
Dựa vào lược đồ, em hãy trình bày những nét chính về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kì.
Dựa vào lược đồ (hình 86), nêu một số địa điểm diễn ra khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Kì.
Thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam như thế nào?
Tinh thần kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta được thể hiện như thế nào?
Dựa vào lược đồ (hình 86), nêu một số địa điểm diễn ra khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Kì.
Hình 86: Lược đồ những địa điểm nổ ra khởi nghĩa ở Nam Kì (1860 - 1875)
Nguyên nhân sâu xa của việc Pháp xâm lược nước ta là
A. Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc, nếu chiếm được thì sẽ dễ bề khống chế Trung Quốc.
B. Việt Nam có vị trí chiếm lược quan trọng, giàu tài nguyên khoáng sản và công nhân rẻ.
C. Triều đình Huế đứng về phía Tây Ba Nha, chống lại những quyền lợi của Pháp ở Đông Dương.
D. Pháp muốn ngăn chặn việc triều đình Huế đứng về phía Trung Quốc, chống lại Pháp.
Khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp lấy cớ là
A. Bảo vệ đạo Gia tô.
B. mở rộng thị trường buôn bán
C. “khai hoá văn minh” cho nhân dân An Nam
D. Nhà Nguyễn tấn công các tàu buôn của Pháp trên Biển Đông.
Âm mưu của Pháp khi tấn công Đà Nẵng là
A. biến Đà Nẵng thành căn cứ quân sự để từng bước đánh chiến Lào và Cam Phu Chia.
B. Chia đất nước ta thanh hai miền để dễ bề mở rộng đánh chiến cả nước.
C. tạo bàn đạp để chuẩn bị tấn công Trung Quốc
D. tạo bàn đạp để đánh Huế, nhanh chóng buộc nhà Nguyễn đầu hàng.
Chỉ huy cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở Đà Nẵng chống lại quân Pháp là
A. Nguyễn Trung Trực
B. Nguyễn Tri Phương
C. Phan Thanh Giản
D. Trương Định
Thất bại trong âm mưu đánh chiếm Đà Nẵng, quân Pháp chuyển hướng tấn công
A. Huế
B. Hà Nội
C. Hải Phòng
D. Nam Định
Trước thái độ chống Pháp một cách yếu ớt của nhân dân triều Đình tại Gia Định, nhân dân địa phương đã
A. Sơ tán khỏi gia định’
B. tự động nổi dậy đánh giặc
C. tham ra cùng quân triều đình đánh giặc
D. nổi dậy chống cả quân Pháp và quân triều đình
Tháng 7-18560, quân Pháp tại Gia Định ở trong tình thế
A. chỉ có khoảng gần 1000 tên mà phải dàn mỏng trên một phòng tuyến dài hơn 10km.
B. chỉ có khoảng 100 tên, phải cố thủ trong thành Gia Định
C. bị quân dân ta tấn công liên tiếp và phải rút chạy ra biển
D. bị bao vây, tiêu diệt chỉ còn lại khoảng 100 tên và phải cố thủ trên các tàu chiến.
Nguyên nhân chính khiến triều đình Huế vội kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất là
A. lo sợ phong trào kháng chiến của nhân dân lên cao sẽ ảnh hưởng đến uy tín của triều đình
B. Pháp hứa sẽ định chiến và trao trả lại các tỉnh đã chiếm được cho triều đình Huế.
C. muốn cứu vãn quyền lợi của giai cấp thống trị.
D. muốn hạn chế sự hi sinh, mất mát cho nhân dân.
Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của nhân dân ba tỉnh Miền Đông Nam Kì khi Pháp đánh chiếm Gia Định là
A. khởi nghĩa Trung Trực, khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân.
B. khởi nghĩa Trung Trực, khởi nghĩa Trương Định.
C. Khởi nghĩa Phan Tôn, Phan Liêm.
D. Khởi nghĩa Hồ Xuân Nghiệp, Phan Văn Trị.
Hãy điền chữ Đ (đúng) hoặc chữ S (sai) vào ô [ ] trước các câu sau
1. [ ] Trước khi chiếm được Đại đồn Chí Hoà, quân Pháp đã đánh chiếm các tỉnh Đinh Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long.
2. [ ] Ngay khi thức dân Pháp xâm lược Đà Nẵng, nhiều toán nghĩa binh đã nổi lên phối hợp chăt chẽ với triều đình chống Giặc.
3. [ ] Trương Định là người không tuân theo lệnh Triều đình hạ vũ khí mà cương quyết đứng về phía nhân dân chiến đấu chống Pháp.
4. [ ] Giữa năm 1867, thực dân Pháp đã chiếm được các tỉnh Vinh Long, An Giang, Hà Tiên mà không tốn một viên đạn.
5. [ ] Trong cuộc kháng chiến của nhân dân sáu tỉnh Nam Kì chống Pháp, có người đã dùng văn thơ để chiến đấu như Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Hữu Huân, Phan Văn Trị…
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Mọi người ơi giup mik với sử 8 nha mai mik thi rùi
nhận xét nội dung hiệp ước nhậm tuất (5/6/1862)
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tại sao Pháp lại chọn Gia Định lm nơi thực hiện kế hoạch đánh lâu dài với ta??
Câu trả lời của bạn
em hãy nêu nội dung chủ yếu của các hiệp ước nhâm tuất và nhận xét
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nhà nguyễn đặt quyền lợi cá nhân , gia tộc lên trên quyền lợi quốc gia cho em bài học gì?
Câu trả lời của bạn
Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 – 1858)
Giai đoạn này kéo dài trong tộng cộng 56 năm bắt đầu từ khi vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802 trải qua 4 đời vua. đến năm 1858 thời vua Tự Đức
Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời – hành trình giành lại chính quyền đầy gian truân của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh – tức vua Gia Long sau này.
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) vị vua sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu tiên mà cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia Định rồi xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn Ánh liên tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng giỏi.
Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất phát từ trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với quân Tây Sơn. Dù thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước tài thao lược của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng thêm cái chết của tướng Đô đốc Phạm Ngạn , cùng tình trạng binh lính thương vong nhiều, nên Hoàng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá nhà cửa để trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng Lữ, đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn định kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược Việt Nam, rồi chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785). Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.
Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kẻ thù không đội trời chung của Nguyễn Ánh
Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang Toản nhỏ dại lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu thần nhà Lê tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia Định, cùng tấn công Tây Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Không những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn bởi bàn tay Thái sự Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da xáo thịt”.
Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản công. Năm 1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Chính quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh, nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó không lâu.
Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân (3/5/1801).
Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng Võ Tánh của chúa Nguyễn tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang Diệu đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu giải cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, chính thức khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt. Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong Gia Định, “Long” trong Thăng Long. Sau đó Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn, như một hành động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như năm tháng chui lủi, lưu vong của vị tân vương.
Bộ máy Nhà nước
Tổ chức chính quyền
Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về cơ bản hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống như các triều đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua như có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các), chuyên về giấy tờ, văn thư và ghi chép . Tứ trụ Đại thần, đảm đương những việc quân cơ đại sự, tới năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông nhân phủ lãnh nhiệm các công việc của Hoàng tộc.
Cơ mật viện này nay là trụ sở của Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế
Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thượng Thư đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước. Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc tử giám quản lí mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện việc chữa bệnh và thuốc thang,… cùng với một số Ti và Cục khác.
Với cơ cấu bộ máy chính quyền như vậy, khi có việc quan trọng, vua sẽ giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như nào đều được quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự chuẩn của vua mới được thi hành. Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều sai trái. Các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm. Quan chức của triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do dân tự trị. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Quan phục thời nhà Nguyễn quan văn bên trái, quan võ bên phải
Quan lại được phân ra ban văn, ban võ. Minh Mạng đã xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại tương đối ít nhưng họ được hưởng nhiều phúc lợi, phụ thân không phải đi lính, miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn/võ), và phẩm hàm. Không những vậy, con cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là hưởng phúc cha ông để lại, có thể là được bạn đất đai, chức quan. Bộ máy quan lại không quá nặng nề, nhưng nhà Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.
Phân chia hành chính đất nước
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Kinh thành Huế ngày nay
Đến thời Minh Mạng,không thể bỏ sót cuộc cải cách hành chính của ông trong các năm từ 1831 đến1832. Vua quy đổi các tổng trấn, các dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ương. Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Có các cơ quan hỗ trợ như Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp, còn lãnh binh đảm đương mặt quân sự. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Hệ thống chính quyền có xu hướng giảm bớt quyền lực ở địa phương, tập trung ở Trung ương, cùng với cơ cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình dễ dàng quản lý và có đối sách kịp thời khi có sự cố.
Đối với miền núi và địa bàn sinh sống của những tộc người thiểu số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa hành chính đồng loạt với miền xuôi. Năm 1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu số), để quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vuaTự Đức đã bãi bỏ chế độ này.
Chính thực dân Pháp đã ca ngợi sự phân chia hành chính khoa học của Minh Mạng. Và có thể thấy bộ mặt hành chính ngày nay của Việt Nam không khác biệt nhiều so với thời nhà Nguyễn độc lập.
Từ thời nhà Nguyễn, vấn đề biển đảo đã được chú trọng bằng việc xác lập chủ quyền và thành lập các đội hải quân, đặc biệt chú trọng Hoàng Sa và Trường Sa. Từ năm 1816, Gia Long đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Dưới triều Minh Mạng, ông cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải đảm nhiệm nhiều trọng trách: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Tới khi thực dân Pháp xâm lược Đông Dương thì hai đội hải quân này ngừng hoạt động. Cuối thế kỉ XIX, chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế có Ý định dựng ngọn hải đăng để khẳng định quyền chiếm hữu của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng không thành. Đến tận năm 1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này. Dù vậy khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ XX thì Bộ Ngoại giao Pháp đã lập tức phản đối dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài.
lãnh Thổ Việt Nam thời vua Minh Mạng vươn tới cực đại tới tận Ai Lao, Chân Lạp
Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây. Năm 1832 nhà Nguyễn bỏ chế độ tự trị của người Chăm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay) chính thức sát nhập vùng đất này vào lãnh thổ Việt Nam. Vào năm 1835 Vua Minh Mạng cho thành lập Trấn Tây Thành (Campuchia ngày nay) thời kỳ này lãnh Thổ Việt Nam thời vua Minh Mạng vươn tới cực đại tới tận Ai Lao, Chân Lạp
Kỵ húy dưới thời nhà Nguyễn
Những chữ quốc húy dưới thời Nhà Nguyễn thường gặp
Việc kiêng kị tên húy của vua chúa có thể coi là một “đặc sản” của triều Nguyễn dù nó đã hình thành từ trước đó. Mỗi vị vua Nguyễn khi lên ngôi đều có công bố những chữ húy và chỉ thị rõ ràng về cách tránh. Cũng vì hiện trạng này mà nhà Nguyễn chiếm kỉ lục trong số lượng lệnh kỵ húy xuyên suốt lịch sử phong kiến (22/40), và đó mới chỉ dựa trên giấy tờ của 40 lệnh kiêng còn sót lại. Sau khi “Ngự chế mạng danh thi” được công bố, thì từ đời vua Thiệu Trị trở về sau, mỗi vị vua Nguyễn có năm tên là: Danh tự ,Ngự danh, Niên hiệu, Thuỵ hiệu và Miếu hiệu.
Quân đội nhà Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phương Tây. Sau khi quản làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng quân đội chính quy hoàn thiện hơn,. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản binh, theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1 người lính. Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Quân chính quy có 14 vạn người, bên cạnh đó còn có quân trừ bị. Quân đội còn được tổ chức thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo binh, trong đó bộ binh và thuỷ binh được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao. Ngoài vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị hoả khí mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ…Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành luỹ, đồn to nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.
Đến thời Minh Mạng, ông tổ chức quân đội theo kiểu mẫu phương Tây, hướng đến tiêu chí “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, số lượng người cầm cờ từ 40 người giảm xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người). Vua còn thuê các sĩ quan huấn luyện Tây Dương nên phương thức tác chiến được các học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp. Quân đội Nguyễn triều thời điểm đó, có thể coi là lực lượng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu vực Đông Á, hơn hẳn các nước lân bang như Trung Hoa, Thái Lan, Campuchia.
Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Một nguyên nhân quan trọng là vấn đề tài chính. Bộ binh được trang bị thô sơ: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Chất lượng bảo trì vũ khí cũng kém. Về thuỷ binh, không có thêm tàu hơi nước mới nào, thuỷ quân yếu ớt đến mức không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Đời sống quân lính không được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Bởi vậy nhuệ khí của quân sĩ suy giảm. Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc giảng dạy binh pháp không hướng tới học hỏi phương Tây nữa mà quay về Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Đại vương. Chính vì Pháp bỏ xa Đại Nam về khoảng cách vũ khí tân tiến, quân đội thiện chiến, nên nhà Nguyễn dần dà trở nên sợ hãi.
Chế độ thuế khóa – lao dịch
Sau khi đăng cơ, vua Gia Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ 18 đến 60 tuổi.
Đơn vị làng có quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những tục lệ riêng ghi trong hương ước của làng nên xưa nay vẫn có câu “Phép vua thua lệ làng”. Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả công sản (tài sản công) và thuế khóa, đê điều, trị an. Họ cũng phải lo phân phối công điền (ruộng công) giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên đi lính. Nói chung, những người đứng đầu các làng làng toàn quyền lo việc thuế má và sưu dịch, triều đình không quan tâm làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa các dân làng như nào.
Về thuế nhân đinh và thuế ruộng, triều Nguyễn đặt mức thuế khoá mới nặng hơn thời trước. Vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng trong giai đoạn đất nước bị chia cắt. Hộ tịch phân ra 9 hạng, tuỳ từng hạng mà nộp thuế toàn phần hoặc được miễn giảm phân nửa hay miễn trừ cả sưu thuế lẫn sai dịch. Dân công nghệ thì nộp thuế sản vật. Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Dân Thanh Nghệ và Bắc Hà chịu thuế đinh và thuế điền cao nhất cả nước. Theo thống kê của bộ Hộ thì số đinh năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380 người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất.
Mỗi năm, người dân đinh phải bỏ ra 60 ngày lao dịch cho triều đình với các công việc như xây làm thủy lợi, xây đắp các thành lũy; nặng nề nhất là xây dựng các cung điện cho hoàng tộc. Năm 1807, ngay khi kinh thành Huế vừa được hoàn thành, vua Gia Long lại huy động hàng nghìn dân đinh và binh lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng là người nối tiếp công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung xây dựng cấm thành, song, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kì năm 1842, người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đoàn đông đến 17.500 người, 44 con voi và 172 con ngựa của nhà vua. Giáo sĩ Pháp Guérard đã nhận định: “…sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế khóa và lao dịch đã tăng lên gấp ba”. Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca nói lên sự thống khổ từ chế độ lao dịch, đặc sắc nhất là “Tố khuất khúc” của vùng Sơn Nam Hạ:
Binh tài hai việc đã xong,
Lại còn lực dịch thổ công bao giờ.
Một năm ba bận công trình,
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao…
Luật pháp trong nước
Thuở mới khai quốc, vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất. Năm 1811, Gia Long lệnh cho tổng trấn Bắc Thành – Nguyễn Văn Thành chủ trì biên soạn một bộ luật mới. Vào năm 1815, nó mới được ban hành, mang tên Hoàng Việt luật lệ (còn có tên khác là luật Gia Long. Bộ luật này gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều. Chương “Hình luật” chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như “Hộ luật” chỉ có 66 điều còn “Công luật” chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên truyền “yêu ngôn, yêu thư”, và tệ tham nhũng. Những vị vua sau này đã chỉnh sửa và cải tiến luật Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mạng.
Ngoại giao
Với các nước láng giềng
Theo truyền thống bang giao, phương Bắc luôn là điểm tới đầu tiên. Tháng 5 năm 1802, Gia Long cử sứ giả mang cống phẩm sang Trung Quốc cầu phong triều đình Mãn Thanh. Dẫn đầu phái đoàn ngoại giao là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ. Ở Quảng Tây, cống phẩm được chuyển lên Kinh thành, còn đoàn sứ giả nhà Nguyễn ở lại chờ xem lên có được yết kiến vua Thanh hay không. Sứ đoàn này chưa quay về thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh, xin dùng quốc hiệu là Nam Việt. Thanh lo ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng, nên đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam. Gia Khánh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Khi phân tranh với Tây Sơn, Gia Long đã từng cầu viện Rama Chakkri. Vậy nên, không có gì lạ lẫm khi giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được mối quan hệ hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm.
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành các châu, phủ của Việt Nam.
Còn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên để Thủy Chân Lạp rơi vào tay người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp.
Với Tây phương
Nước Anh là một trong những quốc gia châu Âu tiên phong đặt quan hệ với Việt Nam, xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam, nhưng liên tục bị vua Gia Long từ chối. Đối với nước Pháp, do mối nợ từ những tháng ngày giao tranh với Tây Sơn nên Gia Long mềm mỏng hơn. Khi chiến thắng về phía chúa Nguyễn, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại Nam triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và đặc cách không cần quỳ lạy vua. Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Tuy nhiên, Gia Long cũng hết sức đề phòng người “ân nhân” này. Khi vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước Versailles năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn, Gia Long đã lập luận những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay không còn hiệu lực.
Sau sự kiện nước Anh chiếm được Singapore, Gia Long nhận ra cần phải giao hảo với phương Tây. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam.
Dưới thời Minh Mạng, ông không ưa những người Âu – Mĩ, đặc biệt là Công giáo. Bởi vậy, Minh Mạng đã cho thi hành chính sách cấm đạo cực kì khắc nghiệt, việc sát hại giáo sĩ xảy ra như cơm bữa. Những người Pháp đã từng làm việc ở triều tiên đế, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt. Và đây trở thành lối mòn trong thái độ của các vua Nguyễn với các quốc gia phương Tây, một cái nhìn đầy khinh mạt, và hằn học. Đến thời Tự Đức, vua khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại.
Giữa thế kỉ XIX, các tàu buôn của Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương nhưng vẫn vấp phải sự ức thương của nhà Nguyễn. Sau khi Gia Định rơi vào tay Pháp, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không được trang bị kiến thức về ngoại giao.
Kinh tế
Thương mại
Thương mại Việt Nam lúc đó là một bức tranh ảm đạm. Các tổ chức thương mại trong nhân dân chủ yếu trong phạm vi gia đình, nếu có hội buôn lớn thì đó cũng chỉ là sự hợp tác có thời vụ. Người Việt chủ yếu mua bán các mặt hàng thuộc về lương thực, thực phẩm, gia vị, các vật dụng nhỏ như: gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu… và bán và nhập cảng trà,thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy. Ở nông thôn, hoạt động thương mại mang tính chất trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Việc làm ăn lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dẫu họ chỉ chiếm số lượng nhỏ.
Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến công du đến các nước trong khu vực để đặt mối buôn bán. Dưới triều Minh Mạng, từ 1831-1832 trở đi, hoạt động này diễn ra với tần suất mạnh, điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Luzon -Philippines), đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba,… Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của triều Nguyễn là gạo, đường, lâm thổ sản quý, và nhập khẩu len dạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần như là độc quyền của triều đình dù luật pháp không hê cấm đoán tư nhân. Tuy nhiên, các lái buoob cũng dùng mánh lới để lợi dụng các chuyến đi này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore. Một mối nguy hại là thương nhân người Hoa đã du nhập thuốc phiện về Việt Nam, may thay đất nước của chúng ta không có Chiến tranh thuốc phiện như ở Trung Quốc. Khi Nam Kỳ chuẩn bị Pháp thâu tóm gọn ghẽ, thống kê tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triều đình rất nhiều. Từ thời Thiệu Trị, do xung đột với phương Tây từ xung đột tôn giáo, quan hệ thương mại với các nước này đi xuống. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều đình lại buộc người dân đoạn tuyệt giao dịch với người Tây nên kết quả là thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người Hoa chiếm tỉ lệ vượt trội.
Thủ công nghiệp
Ngành kinh tế này được chia thành thủ công nghiệp nhân dân và thủ công nghiệp Nhà nước. Thủ công nghiệp nhân dân không có tính bứt phá, sáng tạo bởi kĩ thuật lạc hậu, nhà nước lại trưng thu thợ giỏi về phục vụ triều đình, đặc biệt trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa… tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho Hoàng gia, nên tạo ra hai mảng đối lập.
Chính quyền Trung ương đã tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý 57 cục (làm đất, đúc, kim hoàn, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,…). Ti Thuyền đảm nhiệm các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trong phạm vi cả nước . Bên cạnh đó là các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.
Nghề đóng tàu rất phát triển, sản phẩm có cả thuyền gỗ lẫn các loại tàu lớn bọc đồng. Một sĩ quan người Hoa Kỳ, tên John White đã công nhận: “ Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”.
Dù chậm tiến so với thế giới nhưng nhiều máy móc tiên tiến đã được ra đời và ứng dụng vào thời đó, có thể điểm tên như máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng… và cả máy hơi nước. Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỉ XIX, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước.
Nông nghiệp
Cũng như phần đa các triều đại khác, triều Nguyễn “dĩ nông vi bản”. Tâm lí này đã đưa đến những chính sách phát triển nông nghiệp, như là cấm mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,… Năm 1828, bộ Lễ vâng mệnh vua, soạn thảo các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ lâu dài, cũng như quy định rất nghiêm túc, cụ thể.
Quỹ ruộng đất công là một vấn đề nan giải của triều Nguyễn, nó ảnh hưởng đến thu nhập quốc khố, và cũng là một trong những nguyên nhân khích lên khởi nghĩa nông dân. Ý thức được được điều này, ngay từ đầu triều đại, Gia Long đã ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để đảm bảo nông dân ai cũng có đất cày. Khi nhân dân liên tục thất thu, triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Vua Minh Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật cao thấp đều có khẩu phần nhưng quan lại, cường hào giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3.
Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục việc khai hoang và phục hóa, từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ruộng đất tư ở Nam Kì rất lớn nhưng chính quyền không thể chạm tay vào bởi lực lượng đại địa chủ Gia Định đã từng ủng hộ Nguyễn Ánh trong thời kì nội chiến. Vấn đề khẩn hoang ta không thể không nhắc đến hai tên tuổi Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh. Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân, thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu được thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Nguyễn Công Trứ. Bản thân Nguyễn Công Trứ cũng là cha đẻ của hai huyện Tiền Hải (Thái Bình), và Kim Sơn (Ninh Bình).
Ngoài ra, triều đình nhà Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 là 4.273.013 mẫu. Tuy nhà Nguyễn đã hết sức nỗ lực trong việc mở rộng quỹ đất công, hạn chế chiễm hữu đất đai thành tài sản riêng nhưng vấn nạn này vẫn nhức nhối, không những thế, vẫn còn đất đai bị bỏ hoang.
Văn hóa và giáo dục
Giáo dục và khoa cử
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Trong kì thi năm 1829, người đỗ Tam khôi không lấy được ai, nhưng người đạt phân điểm suýt soát với bậc Tiến sĩ thì khá nhiều. Trước tình trạng này, vua Minh Mạng đưa ra quyết định: mỗi khoa thi lấy thêm những người có phân điểm gần sát với Đệ Tam giáp, nhưng tính riêng thành một bảng phụ (Phó bảng). Như vậy Phó bảng (còn gọi là Ất tiến sĩ, Chánh bảng hay Giáp bảng là tiến sĩ trở lên) cũng được chọn luôn trong kỳ thi đại khoa, nhưng về mặt quyền lợi đãi ngộ thì không bằng những người đỗ Chánh bảng.
Trường thi Nam Định năm 1897
Trong thực tế, dưới thời nhà Nguyễn, nhiều người đỗ học vị Phó bảng ra làm quan, đem đức hạnh và trí lực thi thố với đời rất nhiều người tài năng lưu danh sử sách, chẳng hạn các vị Phó bảng như cụ Nguyễn Văn Siêu, cụ Phan Chu Trinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc… Cũng có nhiều người chỉ đỗ Cử nhân nhưng đóng góp bao sức lực cho nước nhà như các cụ Nguyễn Công Trứ, Đặng Huy Trứ, Phan Bội Châu…
Trong dân chúng, việc học tập khá thông thoáng. Chỉ cần có học lực khá, người ta cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học.
Nguyễn Trường Tộ đã đả kích mạnh mẽ lối học từ chương, hư văn, khuyến khích đẩy mạnh tiếp thu khoa học kỹ thuật, học thiên văn, địa lý, luật, sinh ngữ… Học tức là học cái chưa biết để mà biết, “biết để mà làm” (Tế cấp bát điều). Ông tâm huyết đến mức viết các bản điều trần ngay cả khi nằm trên giường bệnh.
Văn học
Thuở mới thành lập, các nhà thơ có hai nguồn gốc chính là quan của Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Những cái tên nổi bật cho văn học lúc này: Phạm Quy Thích, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, và đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều . Nội dung bao chùm là tâm lí hoài Lê và một lãnh thổ văn chương Việt Nam mới hình thành ở phương Nam. Thời nhà Nguyễn độc lập là thời của các nhà thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong đó có các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và các thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, ba nàng công chúa tạo nên “Tam khanh” của nhà Nguyễn. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền,Trương Quốc Dụng, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ. Hai thể kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ ngự chế của các vị vua và các thi tập của nho sĩ. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là thời kỳ ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử đương thời tác động rất lớn vào văn chương, thể hiện sự căm phẫn trước hành vi xâm lăng của Pháp và tố cáo tội ác, tâm trạng bất lực trước thời cuộc. Tác giả tiêu biểu thời kỳ này gồm Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền.
Văn học nhà Nguyễn phát triển ở cả Hán văn lẫn chữ Nôm. Hai thể lục bát và lục bát gián cách được sử dụng phổ biến với nghệ thuật ngôn từ đặc sắc. Về nội dung, ngoài các nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống thì số phận con người và phụ nữ cũng được đề cập đến.
Khoa học, kỹ thuật
Sử học
Đây là niềm kiêu hãnh của nhà Nguyễn với những tác phẩm đồ sộ. Năm 1820, Quốc sử quán ra đời với nhiệm vụ thu thập các bộ sử xưa, in lại Quốc sử thời Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ chức kỷ cương, hoạt động một cách đầy hiệu quả. Vương triều Nguyễn cũng cho lập các kho tàng lưu trữ các sáng tác từ cổ chí kim.
Chính sử nhà Nguyễn đã có nhiều đóng góp cho sử học nước nhà với những công trình sử học đồ sộ như: Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục – Tiền biên và chính biên (có tới 587 quyển), Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khẩu phương lược, Bản triều bạn nghịch liệt truyện… Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá nhân như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bản, Quốc sử dĩ biên của Phan Thúc Trực,… và nhất là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.
Từ các tỉnh lớn cho đến tận các huyện xã rộ lên phong trào biên soạn các bộ địa phương chí. Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn khá công phu với nhiều chi tiết quý mà các bộ sử lớn không có. Tiêu biểu cho địa phương chí là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch
Thể loại Gia Phả thì có Mạc Thị Gia phả của Vũ Thế Dinh.
Năm 1942, Giám đốc Nhà lưu trữ Đông Dương Paul Boudet cho biết rằng các tài liệu trước thế kỷ XIX (thời Nguyễn) chỉ còn lưu lại được khoảng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác lưu trữ mới được quan tâm. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới 12.000 quyển. Như vậy nhà Nguyễn đã có công lao trong việc lưu giữ các tác phẩm xưa, bổ sung trong kho tàng sử học dân tộc.
Địa lí
Mảng địa lí rất được nhà nước coi trọng, bộ Hoàng Việt Nhất thống dư địa chí do Thượng thư Lê Quang Định tuân mệnh vua Gia Long mà biên soạn. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng soạn tiếp nhiều công trình khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao của cá nhân như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú; Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu; Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,… Ngoài ra dưới triều Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của nước ta giai đoạn đó.
Kỹ thuật công nghệ
Trong nội chiến với Tây Sơn, Nguyễn Ánh (tức Gia Long), đã từng sử dụng tàu chiến nước ngoài. Sau khi lên ngôi, ông cũng cho đóng loại thuyền lớn bọc đồng phục vụ tuần tra biển.
Sang đến thời Minh Mạng, đã có nhiều phát minh quan trọng, chủ yếu trong nông nghiệp gồm: máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu, máy hút nước tưới ruộng. Năm 1834, Nguyễn Viết Tuý dưới sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng sức nước mang tên Thuỷ hoả kí tế. năm 1839, khoa học kĩ thuật triều Nguyễn đã có bước tiến quan trọng khi dựa theo các kiểu phương Tây – các đốc công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên, được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Tiếc thay sau đó mọi việc dường như bị đình chỉ. Thời Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm, nhưng chúng vẫn chưa kịp tác động và thay đổi xã hội Việt Nam.
Kiến trúc
Kinh thành Huế là công trình kiến trúc đặc sắc của Nguyễn Triều, tọa ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn 500 ha và 3 vòng thành bảo vệ. Kinh thành được xây dựng từ năm 1805 và hoàn thành vào năm 1832, theo kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc thành quách Á Đông. Khu quần thể này tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt hóa. Huế cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời vua Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.
Ngoài ra phải kể đến hai thành cổ trấn thủ Sài Gòn xưa là thành Quy và thành Phụng, nhưng giờ chỉ còn lại trong tiềm thức.
Thành Quy (thành Gia Định) được thiết kế theo phong kiến trúc Vauban, nhưng vẫn ẩn chứa phong thủy Á Đông. Điều này thể hiện rõ nét khi thành có hình hoa sen. Giáo sư Nguyễn Đình Đầu đã miêu tả: “Gia Định là ngôi thành đồ sộ, lớn nhất trong lịch sử nhà Nguyễn. Lúc đầu được gọi là Bát quái, do có 8 cửa, bên trong thành xẻ 4 đường ngang, 4 đường dọc thành những ô vuông”. Thành có liên quan đến Tả quân Lê Văn Duyệt, người có hiềm khích với Minh Mạng, cũng như binh biến Lê Văn Khôi. Vì lí do này mà sau khi dẹp được binh biến, vua Minh Mạng cho phá bỏ thành.
Năm 1836, Minh Mạng ra lệnh xây dựng thành Phụng. Ngày 17.2.1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công đánh chiếm Gia Định, thành Quy nổ tung và cháy rụi.
Các phong trào chống triều đình
Ra đời trong bối cảnh chế độ quân chủ chuyên chế đã khủng hoảng trầm trọng, nhà Nguyễn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều tầng lớp nhân dân. Thông thường, đầu triều đại, lực lượng triều đình còn hùng hậu, sẽ ít xuất hiện khởi nghĩa nhưng với triều Nguyễn lại là ngoại lệ. Theo thống kê của các nhà sử học, số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ XIX còn nhiều hơn thế kỷ XVIII. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra. Mạnh mẽ và dồn dập nhất là 254 cuộc khi Minh Mạng cầm quyền (1820-1840). Có thể điểm tên rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn như Phan Bá Vành ở Nam Định (1821-27), Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833-1834), Cao Bá Quát (1854-1856) ở Hà Nội, đặc biệt là phong trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu (1861-1865) trên khắp lãnh thổ Bắc Kỳ.
Ở Nam Kì thì nổi tiếng với binh biến Lê Văn Khôi ở thành Phiên An (1833 – 1835).
Do chính sách bãi bỏ chế độ Thế tập, thay bằng lưu quan với các tộc người thiểu số nên vua Nguyễn cũng vấp phải sự chống đối của các tù trưởng như: Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833 – 1835), Năm 1804, Ma Danh Cúc (Dương Đình Cúc), bộ hạ triều Tây Sơn cũ, tập hợp người Cao Lan nổi dậy ở Thái Nguyên, những cuộc khởi nghĩa của tộc người Khơ me ở Nam Bộ trong những năm 40 của thế kỉ XIX…
Ngoài ra triều đình còn phải lo đối phó dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà Thanh bị bại tràn sang Việt Nam. Tàn quân Thái Bình Thiên Quốc cướp phá các vùng thượng du khiến quân đội nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất phiền phức.
Giai đoạn mất quyền tự chủ
Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
Ngay từ triều Minh Mạng, do chính sách tàn sát giáo dân của vị vua này mà trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề nghị nước Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị bác bỏ, còn dư luận Pháp thì ủng hộ đề nghị dùng vũ lực. Đến đời vua Thiệu Trị, ông đã đồng ý cho thả một số linh mục bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua bán. Song cuộc đàm phán còn chưa dứt thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp. Ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng triều Nguyễn sắp kế mai phục, liền cho bắn đắm thuyền nhà Nguyễn, rồi nhổ chạy ra biển. VuaThiệu Trị tức giận, hạ lệnh xử tử ngay tại chỗ tất cả người Âu bắt được tại Việt Nam. Pháp và Tây Ban Nha đã lợi dụng ngọn cờ tôn giáo để nổ súng xâm lược Việt Nam, bắt đầu từ vụ đụng độ ở bán đảo Sơn Trà, ngày 1/9/1858.
Những ngày đầu anh dũng chống trả
Trước thái độ hung hãn của thực dân Pháp, triều đình Huế đã tổ chức phản công ngay sau sự vụ bán đảo Sơn Trà vang tiếng súng xâm lược. Tự Đức điều Nguyễn Tri Phương về Đà Nẵng, cầm quân đánh giặc, được nắm toàn quyền quyết định trên chiến trường. Tháng 10-1858, phòng tuyến Điện Hải, An Hải bị vỡ, quân triều đình tan tác nhưng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương phòng tuyến Liên Trì đã được xây dựng, lấy phòng thủ để tiến công. Trong trận Liên Trì, quân ta thương tổn khá nặng, Nguyễn Tri Phương xin vua trách tội. Tự Đức đã giáng chức nhưng để ông ở lại đoái công chuộc tội. Không phụ lòng vua, ông đồng lòng hiệp sức với quân dân Đà Nẵng đã quét văng quân xâm lược ra khỏi Đà Nẵng vào ngày 23-3-1860. Ở mặt trận phía Bắc, trong các trận Cầu Giấy 1873, 1883, quân triều đình đã phối hợp với nhân dân tạo nên chiến thắng oanh liệt, các đại úy giặc như Francis Garnier, Rivière phải lần lượt bỏ mạng.
Chính quyền thực dân nửa phong kiến
Đáng lẽ với những chiến thắng trên, nhà Nguyễn có thể nhân đà này cùng hợp lực với nhân dân để chiến đấu tận cùng với Pháp. Đáng tiếc, vương triều này đã bị rơi vào hố sâu của con đường thỏa hiệp, dần dà đã nằm trong quyền “Bảo hộ” của thực dân Pháp. Việc Tự Đức băng hà năm 1883 khiến tình hình đất nước thêm rối loạn, các Hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã chấm dứt tư ách một quốc gia độc lập của Việt Nam, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến kéo dài đến cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa triều đình Nguyễn hết thảy đều bạc nhược, vẫn có những người đứng đầu chính quyền yêu nước như Hàm Nghi ,Thành Thái, Duy Tân.
Về phía nội bộ quần thuần thì chia làm hai phe chủ chiến và chủ hòa. Năm 1885, Tôn Thất Thuyết – người đứng đầu lực lượng chủ chiến quyết định mở cuộc tấn công Pháp ở Đồn Mang Cá và Tòa Khâm Sứ nhưng thất bại. Ông đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), rồi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân giúp vua đánh Pháp. Cùng chung ý chí với lòng dân, Cần Vương đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh. Hàng loạt cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo… Chẳng may, trong năm 1888, vua Hàm Nghi đã bị hai tên bội phản là Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tình bán rẻ cho Pháp. Không mua chuộc được vua Hàm Nghi, thực dân Pháp cho ông đi an trí ở Algérie. Tuy nhiên, Cần Vương vẫn tiếp tục phát triển, phong trào chỉ thực sự chấm dứt khi thủ lĩnh Phan Đình Phùng chết cuối năm 1895.
Ngoài ra, hòa chung với phong trào Cần Vương còn có khởi nghĩa Yên Thế. Đây là một cuộc khởi nghĩa nông dân nhưng đóng góp lớn vào phong trào yêu nước. Sự đấu tranh bền bỉ vắt chéo qua hai thế kỉ khiến thực dân Pháp nhiều phen lao đao.
Phong trào Cần Vương diễn ra rầm rộ nhưng cuối cùng vẫn thất bại bởi nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là các phong trào còn rời rạc, chưa có sự liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa để tạo thành bức tường thành vững chãi của chủ nghĩa yêu nước. Thứ hai là sai lầm khi không tập hợp được mặt trận dân tộc thống nhất: một bộ phận quân Cần Vương đã tàn sát những người theo Công giáo (hơn 20.000 giáo dân – theo thống kê của Pháp). Như vậy là xác định sai kẻ thù giống như phong trào đập phá máy móc của công nhân thuộc các nước tư bản.. Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Về mặt khách quan thì lực lượng nghĩa quân của Cần Vương bị chênh lệch quá lớn trước một quân đội thực dân hùng mạnh, nên khó lòng chống đỡ được.
Sau Hàm Nghi thì có vua Thành Thái và Duy Tân có quyết tâm kháng Pháp, hợp thành bộ ba vị đế vương yêu nước của nhà Nguyễn. Từ nhỏ, vua Duy Tân đã kế thừa tinh thần kháng Pháp của tiên đế Thành Thái, với câu nói nổi tiếng “Nước bẩn thì lấy máu mà rửa”. Ông có kết nối với Việt Nam Quang phục hội (Thái Phiên và Trần Cao Vân ) để làm cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa đã thất bại, vua Duy Tân bị đày ra đảo La Réunion cùng lúc với phụ hoàng Thành Thái.
Những vị vua sau này của thời kì thuộc Pháp lại đi theo con đường thân Pháp. Vua Đồng Khánh phải nhượng bộ cho người Pháp để đổi lấy sự giúp đỡ về mặt hành chính và quân sự. Năm 1887, Liên bang Đông Dương được thành lập gồm thuộc địa Nam Kỳ, 2 xứ bảo hộ Trung Kỳvà Bắc Kỳ cùng Lào và Cao Miên đều đặt dưới 1 viên quan Toàn quyền Đông Dương người Pháp. Năm 1888, vua Đồng Khánh còn phải nhường cho nước Pháp mọi quyền hành trên 3 thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, 3 khu vực này cũng trở thành 3 thuộc địa. Sự hèn yếu của Đồng Khánh khiến ông vấp phải sự phản ứng mãnh liệt của nhân dân, chính ông đã phải thừa nhận “Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá?!”.
Quyền hành của nhà vua bị thu hẹp tối đa khi Paul Doumer nắm giữ vị trí Toàn quyền Đông Dương. Trong giai đoạn từ năm 1897 đến năm 1902, Paul Doumer đã áp dụng 1 chính sách cai trị độc tài: Quan lại cấp tỉnh phải phụ thuộc trực tiếp Thống sứ Pháp, cai trị xứ Bắc Kỳ nhân danh Hoàng đế nhưng lại không cần phải nghe lệnh của vị vua Đại Nam. Các quan cũng phải nhường cho Công sứ Pháp quyền đề cử và bổ nhiệm hương chức. Cơ quan hành chính Pháp cũng phụ trách thu thuế và giao cho ngân khố của triều đình một ngân sách cần thiết cho việc duy trì triều đình. Paul Doumer đã thay thế chế độ bảo hộ bằng chế độ trực trị và triều đình từ lúc đó chỉ còn giữ lại được những hình thức bề ngoài.
Vua Khải Định lại mang vết nhơ với câu ca dao “Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây – Nghề này thì lấy ông này tiên sư”. Năm 1925, Khải Định qua đời, Toàn quyền Alexandre Varenne đã ép tân đế là Bảo Đại mới 12 tuổi phải ký thỏa ước giao cho quan Khâm sứ Pháp các quyền hạn cuối cùng. Thậm chí nhà vua còn không thể lựa chọn các Thượng thư và quan chức. Nam quốc trên thực tế đã phân thành 3 mảnh tách bi
https://lichsunuocvietnam.com/trieu-dai-nha-nguyen/ tham khảo nhé
You are here: Home / Triều Đại Phong Kiến Việt Nam / Triều đại nhà Nguyễn
Triều đại nhà Nguyễn
10/10/2016 by Lịch Sử Việt Nam
Triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945)
Đầu thế kỉ XIX, khi thế giới tư bản đang phát triển cực thịnh với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn thời trung cổ, thì ở Việt Nam, một nhà nước phong kiến đã ra đời. Đây là vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế Việt Nam – triều đại nhà Nguyễn.
Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại, mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp quốc và cũng có nhiều công lao trong việc thống nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Nên khi nhìn nhận về triều đại này cần những đánh giá công tâm, khách quan vai trò của nó trong lịch sử nước Việt
Tựu trung lại, khi nhìn lại sự phát triển của triều đại nhà Nguyễn đến khi sụp đổ, chúng ta có thể thấy hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn độc lập tự chủ và giai đoạn mất quyền tự chủ khi bị đế quốc Pháp xâm lăng áp đặt quyền bảo hộ
Tại sao Pháp lại chọn thành Gia Định để tấn công
Câu trả lời của bạn
Thực dân Pháp chọn Gia Định là điểm tấn công vào năm 1859 do:
- Gia Định và Nam Kì là vựa lúa lớn.
- Cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho triều đình.
- Hệ thống giao thông thủy thuận lợi, đi lại dễ dàng => thực hiện đánh chiếm luôn Campuchia.
do: - Gia Định và Nam Kì là vựa lúa lớn. - Cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho triều đình. - Hệ thống giao thông thủy thuận lợi, đi lại dễ dàng => thực hiện đánh chiếm luôn Campuchia.
Thực dân Pháp chọn Gia Định là điểm tấn công vào năm 1859 do: - Gia Định và Nam Kì là vựa lúa lớn. - Cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho triều đình. - Hệ thống giao thông thủy thuận lợi, đi lại dễ dàng => thực hiện đánh chiếm luôn Campuchia.
- Gia Định và Nam Kì là vựa lúa lớn của Việt Nam, chiếm được gia định quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của triều đình nhà Nguyễn.
- Gia Định có vị trí chiến lược quan trọng:
+ Xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
+ Xa kinh đô Huế sẽ tránh được sự tiếp viện của triều đình Huế.
+ Hệ thống giao thông đường thủy ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định có thể sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ lưu vực sông Mê Kông của Pháp.
- Pháp phải hành động gấp vì tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn để nối liền cửa biển quan trọng trên.
Ngày 17/2/1859, sau khi tấn công 12 đồn dọc hai bờ sông và 3 cảng trên sông Sài Gòn, thực dân Pháp đã chiếm thành Gia Định.
Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công vào cửa biển Đà Nẵng, xâm lược Việt Nam với mục tiêu biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp.
Tháng 2/1859, sau khi kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh bị phá sản ở Đà Nẵng, thực dân Pháp chuyển hướng tấn công vào Gia Định.
Từ ngày 11- 15/2/1859 quân Pháp lần lượt triệt hạ đồn phòng vệ của triều đình Huế đóng dọc theo sông Sài Gòn.
Khi đó, lũy thành Sài Gòn được tổ chức phòng thủ ở 2 mặt, mặt Nam là hai pháo đài phòng vệ, mặt Bắc là một lũy thành với nhiều pháo đài lồi.
Tối 15/2, viên chỉ huy người Pháp Rigault de Genouilly cho tấn công và hủy diệt ngay một trong 2 pháo đài ở mặt Nam, pháo đài còn lại cũng bị triệt hạ vào sáng 16/2.
Ngày 17/2/1859, chiến hạm Phlégéton án ngữ trực diện cổng thành, chiến hạm Primauguet và 2 pháo hạm L'Alarme, L'Avalanche, bảo vệ mặt trận phía trước, còn pháo hạm La Dragonne, Le Prigrent và thông báo hạm El Cano bảo vệ mặt trận phía sau. Tất cả đồng loạt nổ súng để yểm trợ lực lượng đổ bộ áp sát thành Gia Định. Thiếu tá Henri des Paillères chỉ huy 2 đại đội bộ binh đánh vào sườn trái, còn Đại úy Gallimard chỉ huy toán công binh đánh sập cửa lớn và các vách thành, hỗ trợ cho bộ binh tràn vào thành. Một đại đội khinh binh Tây Ban Nha dưới quyền của Thiếu tá Palance nằm chờ tăng viện cho 2 cánh quân trên. Một tiểu đoàn trừ bị nằm đợi lệnh trên bãi công dưới quyền chỉ huy của Trung tá Raybaud. Lực lượng Tây Ban Nha dưới quyền của Đại tá Lanzarotte cùng một nửa tiểu đoàn hải quân ở cánh tả, được lệnh áp sát vách thành.
Trước sự tấn công hoả lực ác liệt của quân Pháp, do lực lượng mỏng lại ở thế bị động nên đội quân của triều đình Huế nhanh chóng tan rã, chỉ còn khoảng 1.000 người tiếp tục cầm cự dưới trận mưa pháo ở sườn mặt. Đại tá Lanzarotte được lệnh dốc toàn lực đẩy lùi cánh quân này ra khỏi mặt Bắc lũy thành Sài Gòn.
Ngày 17/2, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã chiếm đóng nhiều vị trí, đồn binh của quân triều đình trong thành Sài Gòn.
Như vậy, Pháp đánh chiếm Gia Định là vì đây là vị trí chiến lược quan trọng để thực hiện mục tiêu đánh chiếm Việt Nam, đồng thời Gia Định lại dễ đánh chiếm. Do đó Pháp chọn Gia Định để tấn công. Chiếm được thành Gia Định, Pháp đã thực hiện được một phần trong mục tiêu xâm lược Việt nam của mình.
Gia Định và Nam Kì là vựa lúa lớn của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thuỷ ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định, có thể sang Cam-Pu-Chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam Kì quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của Triều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ lưu vực sông Mê Kông của Pháp.
Có vị trí quan trọng như vậy, Pháp đánh chiếm Gia Định để thực hiện mục tiêu đánh chiếm Việt Nam, Gia Định dễ dàng đánh chiếm. Do đó Pháp chọn Gia Định để tấn công. Chiếm được thành Gia Định, Pháp đã thực hiện được 1 phần trong mục tiêu xâm lược Việt Nam của mình.
-Gia Định xa TQ sẽ tránh đựơc sự can thiệp của nhà Thanh.
-Xa kinh đô Huế, sẽ tránh được sự tiếp viện của của triều đình Huế.
-Chiếm được GĐ coi như chiếm được kho lúa gạo của triều dình Huế, gây khó khăn cho triều đình.
-Đánh xong GĐ, sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Campuchia và làm chủ lưu vực sông Mê-Kông.
-Pháp phải hành động gấp, vì: TB Anh sau khi chiếm Singapo và Hương Cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn.
Câu trả lời của bạn
vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long.
Theo sử liệu thì nguyên nhân triều đình Tự Đức phải ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long.
Theo sử liệu thì nguyên nhân chính khiến triều đình Tự Đức phải ký kết hiệp ước là vì lúc đó ở Bắc Kỳ có các cuộc nổi dậy đang đánh phá dữ dội (đáng kể nhất là của: Tạ Văn Phụng và Cai Tổng Vàng, Nông Hùng Thạc)...mà trong Nam Kỳ thì thực dân Pháp đã đánh chiếm được bốn tỉnh là: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long.
Sau khi so sánh hai mối nguy, triều đình Tự Đức bèn sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn giảng hòa với thực dân, để có thể đưa đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất Bắc đang huy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn
Không phải tại vua Tự Đức không muốn cải cách đất nước nhưng vì tình trạng chung lúc đó giới quan lại và Nho sĩ Đại Nam chưa ý thức được sự cấp bách của việc cải cách nên nhà vua cũng không có quyết tâm thực hiện những cải cách quan trọng dẫn đến mất nước. Nhiều nhà sử học quy trách nhiệm về việc mất nước cho các quan lại cao cấp dưới thời Tự Đức. Tuy nhiên dưới thời ông cũng có một số trung thần xả thân vì nước như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu...[1]
Câu trả lời của bạn
a) Giai đoạn từ tháng 9-1858 đến tháng 2-1861:
* Thái độ của triều đình:
- Xây thành luỹ, phòng tuyến tại Đà Nẵng và Gia Định, tăng lực lượng, thực hiện chiến thuật phòng thủ.
- Kêu gọi nhân dân ứng nghĩa, chủ trương “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với giặc.
- Quan quân triều đình đã phối hợp với nhân dân đánh Pháp.
* Thái độ của nhân dân:
Ngay từ đầu, nhân dân đã hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình phá nhà cửa, vườn tược, đào hào, cùng quân triều đình xây thành đắp luỹ, lập các đội dân binh hăng hái đánh Pháp.
b) Giai đoạn từ tháng 2-1861 đến ngày 5-6-1862
* Thái độ của triều đình: Phòng tuyến Chí Hoà bị vỡ, quân triều đình tan rã. Triều đình hoang mang dao động, số ít quan quân triều đình tiếp tục đánh Pháp, nhưng đa số lo sợ muốn "thủ để hoà", cuối cùng đã kí Hiệp ước Nhâm Tuất để bảo vệ quyền thống trị .
* Thái độ của nhân dân: Phong trào chống Pháp của nhân dân diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu nước, thể hiện quyết tâm đánh Pháp đến cùng, nhiều căn cứ chống Pháp được xây dựng ở Gia Định, Gò Công, Đồng Tháp Mười,... chiêu mộ hàng nghìn nghĩa quân, hoạt động rất mạnh, đẩy quân Pháp vào thế bất lợi.
c) Giai đoạn từ tháng 6-1862 đến tháng 6-1867
* Thái độ của triều đình:
- Sau khi kí Hiệp ước, triều đình ra lệnh giải tán nghĩa binh, giải tán phong trào kháng chiến, hạ khí giới nộp cho Pháp.
- Triều đình bước đầu trả chiến phí cho Pháp, cử phái đoàn sang Pháp thương thuyết chuộc ba tỉnh miền Đông nhưng thất bại.
- Tăng tô thuế, đàn áp khởi nghĩa nông dân mà lẽ ra phải chỉnh đốn nội trị, bồi dưỡng sức dân, đoàn kết nhân dân kháng chiến.
-Thái độ của nhà Nguyễn tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây.
* Thái độ của nhân dân:
- Từ phong trào ứng nghĩa chuyển thành phong trào tự động kháng chiến sôi nổi khắp sáu tỉnh Nam Kì. Nghĩa quân kiên trì bám đất, bám dân, phản kháng quyết liệt trước bản Hiệp ước 1862, nổi bật nhất là hoạt động của nghĩa quân Trương Định.
- Một số sĩ phu văn thân yêu nước ở miền Đông thể hiện thái độ bất hợp tác với địch, không chấp nhận Hiệp ước 1862 bằng phong trào "tị địa".
Câu trả lời của bạn
Tình hình triều đình nhà Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX như thế nào?
Câu trả lời của bạn
Triều đình nhà Nguyễn khủng hoảng, suy yếu.
Triều đình nhà Nguyễn khủng hoảng, suy yếu.
Triều đình nhà Nguyễn khủng hoảng, suy yếu.
Đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn rơi vào tình trạng khủng hoảng tranh cấp quyền lực, thối nát, thu thuế của dân nặng nề làm cho đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn, khổ cực. Nhiều phong trào chống đối đã nổi lên.
Tại sao Pháp chọn Việt Nam trong chính sách xâm lược của mình?
Câu trả lời của bạn
Việt Nam có vị trí quan trộng, giàu tài nguyên, thị trường béo bở.
Việt Nam có vị trí quan trộng, giàu tài nguyên, thị trường béo bở.
Việt Nam có vị trí quan trộng, giàu tài nguyên, thị trường béo bở.
Người được nhân dân tôn làm Bình Tây đại nguyên soái là ai?
Câu trả lời của bạn
Trương Định
Trương Định.
Trương Định
Trương Định
Trương Định.
Câu trả lời của bạn
* Duyên cớ:
- Từ cuối năm 1872, thực dân Pháp cho lái buôn Đuy-puy vào gây rối Hà Nội.
- Lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy, hơn 200 quân Pháp do Gác-ni-ê chỉ huy kéo ra Bắc.
* Diễn biến:
- Ngày 20-11-1873, quân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội. Đến trưa thì chiếm được thành, Nguyễn Tri Phương bị bắt.
- Trong vòng chưa đầy một tháng, Pháp cho quân tỏa đi chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Phủ Lí, Ninh Bình, Nam Định.
=> Thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch đánh chiếm Bắc Kì một cách nhanh chóng và dễ dàng.
* Duyên cớ:
- Từ cuối năm 1872, thực dân Pháp cho lái buôn Đuy-puy vào gây rối Hà Nội.
- Lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy, hơn 200 quân Pháp do Gác-ni-ê chỉ huy kéo ra Bắc.
* Diễn biến:
- Ngày 20-11-1873, quân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội. Đến trưa thì chiếm được thành, Nguyễn Tri Phương bị bắt.
- Trong vòng chưa đầy một tháng, Pháp cho quân tỏa đi chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Phủ Lí, Ninh Bình, Nam Định.
=> Thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch đánh chiếm Bắc Kì một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Bắt tay thiết lập bộ máy cai trị, chuẩn bị kế hoạch đánh ra Bắc Kì
Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bị thất bại là do?
Câu trả lời của bạn
Quân dân ta chiến đấu anh dũng
Quân dân ta chiến đấu anh dũng.
Quân dân ta chiến đấu anh dũng.
Mặc dù triều đình Huế nhu nhược và nhát gan nhưng nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu qua các giai đoạn và thời kì. Từ năm 1858 đến năm 1873 nhân dân đã tích cực kháng chiến như kháng chiến ở Đà Nẵng, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ,… dù không thành công nhưng đã làm phá sản kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
Câu trả lời của bạn
Đứng lên đấu tranh
phòng chống gay gắt cuộc xâm lược toàn dân nổi dậy đấu tranh ở khắp nơi trên đất nước
Triều đình do dự không dám đánh Pháp, nhân dân kiên quyết kháng chiến chống Pháp.Quân dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn tri phương. anh dũng chống trả.->Quân Pháp bước đầu thất bại
Câu trả lời của bạn
- Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng, lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên triều đình đã kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất
Nguyên nhân nào khiến nhà Nguyễn ký hiệp ước Nhâm Tuất 1862?
- Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng, lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên triều đình đã kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất
Sau hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình đã có hành động gì?
Câu trả lời của bạn
Tập trung lực lượng đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Trung và Bắc Kỳ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *