Học 247 giới thiệu đến các em bài học: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 -1950) sẽ giúp các em tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Pháp với qui mô toàn quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào? Đảng ta và Bác đã làm gì để lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện là như thế nào? Pháp tấn công Việt Bắc ra sao? Mời các em cùng tìm hiểu
(19/12/1946: Phát lệnh toàn quốc kháng chiến)
”Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.”
Hỡi đồng bào !
Chúng ta phải đứng lên!….
(Lời kêu gọi Toàn Quôc kháng chiến)
(Lược đồ chiến dịch Việt Bắc Thu Đông)
a. Âm mưu của địch:
b. Kế hoạch của Pháp:
a. Pháp đã bất ngờ bị ta giáng trả quyết liệt:
b. Kết quả:
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 -1950) cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Sau tạm ước, ở miền Bắc tháng 11/1946 Pháp khiêu khích tấn công quân ta ở đâu?
Sau thất bại ở Việt Bắc Pháp thay đổi chiến lược như thế nào?
Câu 3 - Câu 5: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 -1950)để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận 1 trang 104 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận 2 trang 104 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận 3 trang 104 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận trang 105 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận trang 106 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận trang 107 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận trang 108 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận 1 trang 109 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập Thảo luận 2 trang 109 SGK Lịch sử 9 Bài 25
Bài tập 1 trang 109 SGK Lịch sử 9
Bài tập 2 trang 109 SGK Lịch sử 9
Bài tập 3 trang 109 SGK Lịch sử 9
Bài tập 1.1 trang 87 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.2 trang 87 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.3 trang 87 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.4 trang 87 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 1.5 trang 88 SBT Lịch sử 9
Bài tập 1.6 trang 89 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 2 trang 89 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 3 trang 89 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 4 trang 89 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 5 trang 90 SBT Lịch Sử 9
Bài tập 6 trang 91 SBT Lịch Sử 9
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 9 DapAnHay
Sau tạm ước, ở miền Bắc tháng 11/1946 Pháp khiêu khích tấn công quân ta ở đâu?
Sau thất bại ở Việt Bắc Pháp thay đổi chiến lược như thế nào?
Sau khi kí Hiệp định sơ bộ và Tạm ước thái độ của thực dân Pháp như thế nào?
Hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến nổ ra ở đâu?
Pháp mở cuộc tấn công Việt băc sthu đông 1947 vì
Trước ngày 19-12-1946, thực dân Pháp đã có những hành động gì nhằm đẩy nước ta nhanh tới chiến tranh?
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong hoàn cảnh nào? Nêu nội dung Lời kêu gọi đó.
Tại sao nói cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là chính nghĩa và mang tính chất nhân dân?
Hãy trình bày diễn biến cuộc chiến đấu ở các đô thị cuối năm 1946 - đầu năm 1947 và ý nghĩa của cuộc chiến đấu đó.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã được chuẩn bị như thế nào?
Hãy trình bày âm mưu và hành động của thực dân Pháp trong cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc của ta.
Dựa vào lược đồ (Hình 45), trình bày diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947.
Hãy cho biết âm mưu của thực dân Pháp ở Đông Dương sau thất bại trong cuộc tiến công Việt Bắc thu - đông 1947.
Đường lối kháng chiến tàn dân, toàn vẹn, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Đảng được cụ thể hóa ra sao?
Tại sao cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng nổ ngày 19-12-1946?
Đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Đảng được cụ thể hóa ra sao?
Phân tích ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến đấu thắng lợi ở đô thị và chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ trong hoàn cảnh
A. Phát xít Nhật tăng cường những hoạt động chống phá cách mạng Đông Dương
B. Quân Trung Hoa Dân Quốc câu kết với thực dân Pháp tiến hành đàn áp cách mạng Đông Dương
C. thực dân Pháp tiến hành quay trở lại xâm lược nước ta ở Nam Bộ
D. Thực dân Pháp ngày càng trắng trợn phá hoại hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và tạm ước ( 14-9-1946), nhằm tiến hành xâm lược nước ta một lần nữa
Để kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt trung ương Đảng, Chính Phủ
A. Ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến
B. Ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
C. Cho xuất bản cuốn sách Kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi
D. Kêu gọi nhân dân kháng chiến, kiến quốc
Đi đầu trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp là
A. Hà Nội
B. Nam Định
C. Huế
D. Các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, cuộc kháng chiến ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã có tác dụng
A. Tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ vững chắc thu đô Hà Nội và các cơ quan Trung Ương Đảng, Chính Phủ
B. Giam chân lực lượng quân Pháp ở hà Nội, các thành phố và thị xã, tạo điều kiện cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến lâu dài
C. buộc Pháp phải rút khỏi Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
D. tập dượt cho các cuộc chiến lâu dài
Tháng 10 -1947, thực dân Pháp tiến công lên Việt Bắc nhằm mục đích
A. chiếm căn cứ Việt Bắc, tạo bàn đạp để tiến công xâm lược Trung Quốc
B. chiếm căn cứ địa Việt Bắc, tạo bàn đạp để đánh chiếm vùng Tây Bắc và Thượng Lào
C. chiếm căn cứ địa Việt Bắc, khai thác nguồ tài nguyên khoáng sản ở đây
D. phá vỡ cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, khoá chặt biên giới Việt –Trung, ngăn chặn liên lạc của ta với quốc tế
Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 có ý nghĩa to lớn là
A. đánh dấu bước phát triển của cuộc kháng chiến của nhân dân thừ thế phòng ngự chuyển sang thế tiến công
B. buộc quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, cơ quan đầu nào kháng chiến được bảo vệ an toàn bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành
C. buộc Pháp phải chấp nhận đàn phán với ta
D. buộc quân Pháp phải rút khỏi miền Bắc nước ta
Hãy điền chữ Đ(đúng) hoặc chữ S(sai) vào ô [ ] trước câu trả lời sau
1, [ ] Đâu năm 1947, Chính phủ Pháp cử Bô-la-éc làm Cao uye Pháp ở Đông Dương thay thế Đác-giăng-li-ơ
2, [ ] sau khi hoàn thành nhiệm vụ giam chậ địch trong thành phố, Trung đoàn Thủ đô tuyên bố tự giải tán
3, [ ] Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông năm 1947 kết thúc, Khu giải phóng Việt Bắc được bảo vệ an toàn
4, [ ] Sau chiến thắng chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông 1947, Đảng và chính phủ chủ chương đẩy mạng cuộc kháng chiến toàn dân toâ diện
5, [ ] Mặt trận Việt Minh và hội Liên Việt thống nhất thành mặt trận Việt Minh (6-1949)
Hãy nối thời gian với sự kiện lịch sử cho phù hợp
Thời gian:
1. Ngày 20-11-1946
2. Ngày 18-12-1946
3. Ngày 19-12-1946
4. Ngày 17-2-1947
5. Ngày 30-10-1947
Sự kiện lịch sử:
a, Thực dân Pháp gửi tối hậu thư, buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.
b, Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ
c, Thực dân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng, Lạng Sơn.
d, Quân ta giành thắng lợi lớn trong trận đánh phục kích trên đường Bản Sao- đèo Bông Lau
e, trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, trở lại căn cứ hậu phương an toàn.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
tại sao cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp bùng nổ vào ngay-12-1946
Câu trả lời của bạn
vi khi nay doc lap cua nuoc ta bi de dao nghiem trong, khong the cho lau them
Sau Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946), ta đã thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung kí kết, nhưng với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, Pháp đã bội ước và tăng cường các hành động khiêu khích:
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tấn công các cơ sở cách mạng, vùng tự do, căn cứ địa của ta.
+ Ở Bắc Bộ, ngày 20-11-1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.
+ Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12-1946, thực dân Pháp liên tiếp gây ra những cuộc xung đột vũ trang.
+ Đặc biệt là ngày 18-12-1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Pháp tuyên bố: nếu ta không chấp nhận thì ngày 20-12-1946, chúng sẽ hành động.
⟹ Trước những hành động xâm lược của thực dân pháp, nhân dân ta chỉ có con đường kháng chiến bảo vệ độc lập tự do.
- Ngày 18, 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.
- Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
⟹ Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bùng nổ.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ngày 19-12-1946:
Dựa vào mục 1a phần Kiến thức cơ bản để nêu và phân tích như sau:
+ Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, nhưng thực dân Pháp không nghiêm túc thực hiện mà ra sức khiêu khích, phá hoại. Chúng không ngừng bắn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách thành lập “Nam Kì tự trị”. Hạ tuần tháng 11-1946, chũng chiếm đóng ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Đầu tháng 12 chúng đổ bộ lên Đà Nẵng, chiếm đóng Hải Dương và tăng thêm quân ở Hải Phòng.
Tại Hà Nội, liên tiếp từ đầu tháng 12-1946, quân Pháp ra sức khiêu khích như đốt cháy Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, phá chướng ngại vật của ta ở phố Lò Đúc, bắn vào dân thường như phố Hàng Bún, Yên Ninh, chiếm đóng trị sở Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông công chính.
+Đến đây, bộ mặt của thực dân Pháp muốn xâm lược nước ta đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đáng và Chính ohur phải có những quyết sách kịp thời. Ngày 12-12-1946, Đảng đã họp và ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
+Đặc biệt nghiêm trọng là trong các ngày 18 và 19-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư như đòi ta phải giải tán lực lượng tự vệ và nắm quyền kiểm soát thủ đô, nếu không được chấp nhận thì chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946 chúng sẽ chuyển sang hành động.
+Nền độc lập của chúng ta đang bị đe dọa nghiêm trọng. Vì vậy, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Khoảng 20h ngày 19-12-1946 công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả Hà Nội mất điện. Đó là tín hiệu của cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
vì sao chiến thắng việt bắc thu đông 1947 ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện toàn dân trên các lĩnh vực
Câu trả lời của bạn
(1950 - 1953) là sự phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp khi bước vào thu đông 1950: - Mở đầu là Chiến dịch tiến công Biên giới thu - đông 1950 giành thắng lợi. Sau thắng lợi Biên giới, quân ta mở liên tiếp nhiều chiến dịch tiến công và phản công trên cả ba chiến trường (đồng bằng, trung du, miền núi), giành thắng lợi trong các chiến dịch mở ra ở rừng núi (Hoà Bình đông - xuân 1951 - 1952, Tây Bắc thu - đông 1952, Thượng Lào xuân - hè 1953). Đế quốc Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi (De Lattre dễ Tassigny) với âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất sau thất bái ở chiến dịch Biên giới. - Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951). Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, chủ trương củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặt, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông 1947- Bài học cho chiến tranh Bảo vệ Tổ quốc
(TG) - Cách đây tròn 70 năm, vào Thu – Đông năm 1947, khi toàn quốc kháng chiến diễn ra chưa đầy một năm, thực dân Pháp mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn, bao gồm cả thủy, lục, không quân đánh vào Việt Bắc – căn cứ địa kháng chiến Trung ương, nhằm chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến, đánh quỵ chủ lực, phá hủy tiềm năng kháng chiến, khóa chặt biên giới Việt - Trung, nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh trong danh dự.
Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng tại căn cứ địa Việt Bắc. Ảnh: Tư liệu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành cuộc phản công chiến lược trên toàn chiến trường Việt Bắc. Lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc Việt Bắc, được quân và dân cả nước từ Bắc chí Nam phối hợp đã chiến đấu anh dũng và mưu trí, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ được các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, bảo toàn lực lượng chủ lực, đánh bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng sa lầy, bị động kéo dài chiến tranh ngoài ý muốn.
Qua chiến thắng Việt Bắc, có thể rút ra một số bài học cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc như sau:
1. Chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch, tích cực xây dựng căn cứ địa trước khi bước vào cuộc kháng chiến
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều hội nghị, nhiều phiên họp quan trọng đề ra những chủ trương, quyết sách triển khai sâu rộng thế trận chiến tranh nhân dân trên cả nước... Tháng 4-1947, Hội nghị cán bộ Trung ương đã họp bàn về nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa và nhận định âm mưu tấn công lên căn cứ địa của địch. Hội nghị cảnh báo: những căn cứ địa ở Việt Nam đều có thể bị đánh xuyên mũi dùi hoặc bị bao vây. Ngay trong mùa Hè 1947, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba đã phán đoán mưu đồ chiến lược sắp tới của thực dân Pháp khi cho rằng chúng sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng trên những địa bàn chiến lược quan trọng còn do ta kiểm soát và chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc nhằm tiêu diệt chủ lực ta. Bởi vậy, trong khi đề ra nhiệm vụ chiến lược mùa Hè cho các lực lượng vũ trang một cách rất toàn diện (về cách đánh, các nguyên tắc tác chiến...), Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể về củng cố bộ đội chủ lực, củng cố cơ quan chỉ huy các cấp, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, củng cố căn cứ địa và nhiều biện pháp khác với tinh thần tích cực, chủ động khẩn trương, tạo thêm những yếu tố thuận lợi khi bước vào mùa khô.
Những cảnh báo về âm mưu chiến lược của thực dân Pháp tiếp tục được Hồ Chí Minh đưa ra trong bức thư gửi riêng cho đồng bào Việt Bắc (Khu 1), ngày 19-8-1947: “Hiện bây giờ Khu 1 chưa phải mặt trận chính. Nhưng đối với bọn thực dân hung ác, nay mai rất có thể Khu 1 trở nên mặt trận chính. Vì vậy chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng”[*].
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ tháng 3-1947, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, quân đội cùng hàng chục vạn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ từ các hướng tập trung lên Việt Bắc. Các công binh xưởng, xí nghiệp, nhà máy cũng lần lượt được chuyển lên căn cứ địa. Hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được phân tán ra các vùng để tiếp tục sản xuất phục vụ cuộc kháng chiến. Hàng vạn tấn lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm khác, bằng nhiều phương tiện khác nhau đã được chuyển lên Việt Bắc, đáp ứng yêu cầu cho nhân dân và kháng chiến. Gần 63.000 đồng bào vùng xuôi tản cư lên Việt Bắc được phân chia về các thị xã, thị trấn, làng bản, dần ổn định cuộc sống.
Tại Việt Bắc, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng cũng được các địa phương triển khai với một tinh thần hết sức khẩn trương: Ra sức củng cố, kiện toàn chính quyền, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể nhằm phát huy hiệu lực, động viên sức dân phục vụ sự nghiệp kháng chiến; phát triển thêm nhiều tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; đẩy mạnh tăng gia sản xuất; chăm lo xây dựng hệ thống trường học, phát triển mạnh các lớp bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú... Đặc biệt, công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang được Trung ương Đảng và các địa phương hết sức coi trọng, cả về kiện toàn tổ chức, biên chế; phát triển lực lượng; công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ; bảo đảm hậu cần, trang bị vũ khí... cũng được triển khai với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Nhờ đó, chỉ trong một thời gian ngắn, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đều được tăng cường về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu tại chỗ cũng như cơ động chiến đấu.
Do nắm bắt đúng âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, chủ động xây dựng căn cứ địa trước khi bước vào cuộc kháng chiến và suốt Xuân Hè năm 1947, nên khi thực dân Pháp quyết định mở cuộc “đại tiến công Việt Bắc”, ta không bị bất ngờ. Đó là một thành công nổi bật, thể hiện tầm nhìn chiến lược sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chính Minh, là nhân tố đầu tiên làm nên thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay không giống như những gì đã diễn ra trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947. Nhưng bài học về chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tích cực chuẩn bị về mọi mặt, giành thế chủ động trong cuộc kháng chiến được rút ra từ chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông năm 1947 vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục phát huy trong điều mới. Bởi vì, dù bị thất bại trong các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, cần: Đề cao cảnh giác, chủ động nắm chắc tình hình, nhận diện cho đúng âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, dự báo đúng các tình huống quốc phòng, an ninh có thể xảy ra để có đối sách xử lý đúng đắn, không để đất nước bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị xã hội của đất nước để tạo nên “cái cốt” vật chất và tinh thần của sức mạnh chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, trong đó phải đặc biệt chú trọng tăng cường các nguồn lực đầu tư, nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân; xây dựng các tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, toàn diện, xây dựng hệ thống các công trình quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược, các khu kinh tế quốc phòng ở các địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh; phát tiển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu trang bị, vũ khí đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các lực lượng vũ trang; hoàn thiện các phương án bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ...
2. Vận dụng sáng tạo lí luận quân sự Mác - Lênin, đề ra đường lối và kế hoạch tác chiến phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục đích chính trị của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định là vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Lực lượng kháng chiến là toàn dân tộc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi thước đất là một chiến hào. Phương châm của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng đã quy tụ được sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc kháng chiến với niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi.
Trên cơ sở đường lối kháng chiến của Đảng, trước âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, ngày 12-6-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị quân sự lần thứ ba nhằm đề ra kế hoạch hoạt động để “phá sự chuẩn bị tiến công mùa Đông của địch”. Hội nghị thống nhất xác định 11 nguyên tắc tác chiến của quân và dân ta. Đó là: Giữ vững chủ động; Hiểu rõ lực lượng của ta và của địch; Biết dùng lực lượng dự bị; Biết tập trung binh lực khi cần, biết điều động rất nhanh chóng và kịp thời; Phải giấu lực lượng của mình, làm sai lạc phán đoán của địch; Phải đánh bất thần, xuất kỳ bất ý, lợi dụng những nhược điểm của địch; Phải thực hiện sự phối hợp về chiến lược và chiến thuật; Phải phối hợp bộ đội chủ lực với dân quân, du kích, tự về; phải nặng về tiêu diệt chiến; phải có kế hoạch thiết thực rành mạch; Phải tiến cho kịp địch và hơn địch[†]
Khi thực dân Pháp mở cuộc hành quân lên Việt Bắc, ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp. Chỉ thị nêu rõ: “Địch càng dàn quân ra càng mỏng lực lượng. Chúng đem quân lên mạn ngược là một dịp cho ta để đánh chúng ở miền xuôi. Chúng đóng quân nơi xa càng dễ cho ta bao vây chúng và chặt đường tiếp tế, đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động”[‡]. Từ đó Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đánh mạnh dưới đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, khiến cho địch không thể đánh Việt Bắc”, giam chân, chặt đứt giao thông, liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế; củng cố căn cứ địa về mặt hành chính, dân vận, quân sự, kinh tế... quân sự hóa các cơ quan hành chính; củng cố bộ máy hành chính và kháng chiến ở vùng địch kiểm soát...
Những chủ trương, kế hoạch tác chiến cụ thể và sáng tạo đó thể hiện sự chủ động về chiến lược của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, được quân và dân trên khắp cả nước quán triệt và triển khai thực hiện bằng nhiều hình thức tác chiến hết sức phong phú, đa dạng, tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng, chia lửa cùng Việt Bắc chiến đấu, buộc địch phải căng sức đối phó trên khắp các chiến trường. Đó là nhân tố hàng đầu làm nên thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947.
Kế thừa và vận dụng bài học này trong tình hình hiện nay, cần đặc biệt chú ý nâng cao năng lực hoạch định đường lối và chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, việc hoạch định đường lối và chiến lược bảo vệ Tổ quốc phải dựa chắc trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phân tích một cách khách quan khoa học bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước; xác định nhiệm vụ, mục tiêu, quan điểm, phương châm bảo vệ Tổ quốc phải sát hợp, bảo đảm các chủ trương, chiến lược của Đảng phải phù hợp với quy luật khách quan, xu thế của thời đại và tình hình thực tế của đất nước, không giáo điều, bảo thủ, chủ quan, duy ý chí; lấy lợi ích quốc gia dân tộc, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân là thước đo sự đúng đắn của đường lối, chiến lược. Chủ động đấu tranh với các âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và kịp thời phát hiện, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, có căn cứ khoa học, đủ sức thuyết phục với các quan điểm không khoa học, nhất là các quan điểm xuyên tác, thù địch phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng; đồng thời ngăn chặn, từng bước đẩy lùi đi đến loại bỏ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm, đụng chạm đến nhiều người, nhiều mối quan hệ, vì thế cần phải thận trọng, chắc chắn, có kế hoạch, lộ trình, bước đi thích hợp, tránh để kẻ địch lợi dụng chống phá.
3. Phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, diễn ra trong điều kiện nước ta vừa mới giành được độc lập. Xét về phương diện vật chất, chúng ta thua kém đối phương rất nhiều. Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh đó, ngay từ đầu và trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên và tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Nhờ có chủ trương và chỉ đạo tổ chức lực lượng khoa học, hợp lý, ngay từ khi quân Pháp mới đặt chân lên căn cứ địa Việt Bắc, chúng đã sa vào thế trận chiến tranh nhân dân của ta. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc một lòng nghe theo Đảng và Bác Hồ với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, với phương thức phòng tránh và tham gia kháng chiến. Việc phá hoại đường sá, cầu cống, làm “vườn không, nhà trống”, bất hợp tác với địch được tiến hành khẩn trương. Kè ngăn sông, chướng ngại vật được dựng lên ở nhiều địa điểm xung yếu. Dân quân, tự vệ được huy động bố phòng, canh gác ở các An toàn khu, các địa điểm, nơi ở, nơi làm việc của các cơ quan, tổ chức Đảng, chính quyền, các kho, trạm, binh công xưởng... Khắp nơi, ở đâu cũng có lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương bám đánh địch tại chỗ, bằng nhiều hình thức với vũ khí thô sơ, tự tạo là chủ yếu, vừa tiêu hao, chia cắt lực lượng, làm chậm bước tiến của kẻ thù, vừa tạo thế trận tác chiến liên hoàn. Dựa trên sức mạnh chiến đấu của toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, địa thế thiên hiểm rừng núi, bộ đội chủ lực bố trí hợp lý, tổ chức chiến đấu, bẻ gãy các đợt tiến công, càn quét của địch. Với phương thức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, nhiều đơn vị bộ đội được tổ chức thành các đại đội độc lập, phân tán về các địa phương để hỗ trợ và thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích, phát động chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, bảo vệ bản làng, quê hương.
Cuộc phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 thực sự là cuộc chiến đấu của toàn dân, không phân biệt tiền tuyến và hậu phương. Trong chiến dịch này, ta đã triển khai được một thế trận liên hoàn, đánh giặc bằng sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích (tự vệ), phối hợp tác chiến nhịp nhàng buộc địch phải phân tác và bị động đối phó trên khắp các chiến trường cả nước, không còn khả năng tập trung đánh lớn theo ý đồ kế hoạch đã vạch ra. Đó cũng là một trong những thành công nổi bật làm nên chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947.
Quán triệt và vận dụng bài học này trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần chú ý thực hiện các vấn đề sau đây:
Trước hết, phải chăm lo xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bởi đó là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, là nhân tố bảo đảm sự sống còn của dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển và là cốt lõi của sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Do đó, cần nắm vững và vận dụng sáng tạo chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng theo nguyên tắc lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng; đồng thời, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân văn để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, giải quyết hài hòa lợi ích của các thành viên trong xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất làđồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Kiên quyết chống mọi biểu hiện chia rẽ, cục bộ, địa phương. Dặc biệt, để giữ cho “trong ấm”, cần phải nắm chắc và thực hiện tốt nội dung cơ bản, vấn đề mấu chốt của xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới là xây dựng “thế trận lòng dân” để lấy đó làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân, binh chủng, lĩnh vực đi ngay vào hiện đại, làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tăng cường đầu tư để trang bị vũ khí, khí tài ngày càng tốt hơn cho các lực lượng vũ trang. Điều chỉnh, kiện toàn tổ chức các lực lượng vũ trang theo hướng tinh gọn, cơ động, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao. Nâng cao chất lượng huấn luyện sát với thực tế chiến đấu trong chiến tranh hiện đại, công nghệ cao.
Thắng lợi của Việt Bắc Thu - Đông 1947 có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, đồng thời để lại những bài học quý giá. Đó là bài học về chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tích cực xây dựng căn cứ địa trước khi bước vào cuộc kháng chiến; bài học về hoạch định đường lối và kế hoạch tác chiến đúng đắn thể hiện tầm nhìn chiến lược Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; bài học về phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tôc, thực hiện toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt... Đó là những nhân tố quyết định làm nên chiến thắng vang dội của Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Những bài học ấy vẫn còn nguyên tính thời sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đại tá, PGS.TS Nguyễn Văn Sự
Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
tại sao chúng ta phải mở chiến dịch việt bắc thu đông 1947
Câu trả lời của bạn
chúng ta phải mở ra chiến dịch việt bắc thu đông là vì phá vỡ phòng tuyến cô lập của pháp ở biên giới để tạo cô hội giúp chung ta liên hệ, tìm nguồn lực ở các nước thuộc phê xã hội chủ nghĩa
Vì tình hình thế giới và Đông Dương thay đổi,có nhiều thuận lợi cho ta : -Cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1-10-1949), tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam liên lạc, nối liền với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.
- Đứng trước hoàn cảnh thế giới có lợi cho cuộc kháng chiến của ta, bất lợi cho Pháp, đế quốc Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhờ sự giúp đỡ của Mĩ, thực dân Pháp có âm mưu quân sự mới thông qua kế hoạch Rơ-ve. Pháp đã xây dựng được tuyến phòng thủ trên Đường số 4, khóa chặt biên giới Việt - Trung và thiết lập Hành lang Đông - Tây, hòng cắt đứt con đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Liên khu III và Liên khu IV. Trên cơ sở đó, chúng chuẩn bị mở cuộc tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc lần thứ hai.
Câu 1: Vì sao chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ? Nội dung lời kêu gọi?
Câu 2: Tại sao cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân là chính nghĩa và có tính toàn diện ?
Câu 3: Cuộc chiến đấu ở các đô thị diễn ra như thế nào?
Câu 4: Vì sao Việt Bắc được xem là mồ chôn của thực dân Pháp?
Câu trả lời của bạn
Câu 1: Vì sao chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ? Nội dung lời kêu gọi?
Câu 2: Tại sao cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân là chính nghĩa và có tính toàn diện ?
Câu 3: Cuộc chiến đấu ở các đô thị diễn ra như thế nào?
Câu 4: Vì sao Việt Bắc được xem là mồ chôn của thực dân Pháp?
Câu trả lời của bạn
Câu 2: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là chính nghĩa là vì đó là cuộc chiến tranh vệ quốc , toàn dân đứng lên đánh lại kẻ thù đã xâm chiếm nước ta , bắt dân ta làm nô lệ trong 80 năm. Cuộc kháng chiến đó có tính nhân dân là vì đó là cuộc kháng chiến đó của toàn dân,tất cả mọi người dân đều tham gia đánh giặc , đó là cuộc kháng chiến nhân dân .
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *