Với bài học này, các em cần nắm được bước phát triển của lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX – thực dân Pháp phát động cuộc xâm lược nước ta. Hiểu được nguyên nhân, quá trình thực dân Pháp xâm lược nước ta. Nêu ra được tính chất, kết quả, ý nghĩa lịch sử. Giải thích nguyên nhân dẫn tới kết quả chống Pháp xâm lược của nước ta từ 1858-1918.
⇒ Tạo điều kiện cho Pháp xâm lược
Tiến hành bám sâu, tìm hiểu bằng các âm mưu, thủ đoạn để dọn đường cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Giai đoạn | Sự kiện chính | Thái độ của triều đình | Thái độ của nhân dân |
1858 - 1862 | Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kì. | Không kiên quyết. Bỏ lỡ cơ hội chống Pháp. Kí hiệp ước Nhâm Tuất 1862 ⇒ nhu nhược, ươn hèn vì quyền lợi của dân tộc. | Nhân dân 3 tỉnh Đông Nam Kì kiên quyết chống Pháp ngay khi chúng nổ súng. |
1863 - 1867 | Pháp chiếm Tây Nam kì | Triều đình lúng túng và giao 3 tỉnh Tây Nam Kì cho Pháp.⇒ Tạo cơ hội cho Pháp chiếm luôn 3 tỉnh Tây Nam Kì còn lại. | Nhân dân 6 tỉnh Nam kì kháng chiến mạnh mẽ phát triển khắp nơi. |
1868 - 1874 | Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 1. | Không kiên quyết chống giặc, cầm chừng. Kí hiệp ước Giáp Tuất 1874 | Kiên quyết chống giặc. |
1875 - 1884 | Đánh chiếm Bắc kì lần 2. | Triều đình kí hiệp ước Hac Mang và Pa ta nốt. ⇒ Hoàn thành chiến tranh xâm lược | Nhân dân Bắc Kì đứng lên chống Pháp. |
1884 - đầu thế kỉ XX | Đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân | 1885-1888, Triều đình chỉ huychống Pháp ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân chống Pháp. 1888- cuối thế kỉ XIX, Triều đình không chỉ huy chống Pháp | Phong trào yêu nước của nhân dân, văn thân, sĩ phu vẫn tiếp tụ phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Bãi Sậy,khởi nghĩa Hương Khê.3 |
Bảng: Các sự kiện chính của phong trào Yêu nước đầu thế kỉ XX (đến 1918)
Niên đại | Sự kiện |
1905 -1909 | Phong trào Đông Du. |
1907 | Đông Kinh Nghĩa Thục. |
1908 | Cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở Trung kì. |
1916 | Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế. |
1917 | Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên. |
1911 | Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. |
Qua nội dung bài học này các em nắm và đánh giá, rút ra nhận xét các nội dung sau.
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 11 Bài 25 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Tình hình của Việt Nam trước khi Pháp xâm lược như thế nào?
Triều đình kí Hiệp ước Nhâm Tuất vào năm nào?
Ai là người chủ trương giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cải cách?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức và nắm vững hơn về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 11 Bài 25để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập 1 trang 156 SGK Lịch sử 11
Bài tập 2 trang 156 SGK Lịch sử 11
Bài tập 3 trang 156 SGK Lịch sử 11 Bài 25
Bài tập 1.1 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.2 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.3 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.4 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.5 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.6 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.7 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.8 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.9 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.10 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.11 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.12 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.13 trang 132 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 2 trang 135 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 3 trang 135 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 4 trang 135 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 5 trang 136 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 6 trang 137 SBT Lịch Sử 11
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 11 DapAnHay
Tình hình của Việt Nam trước khi Pháp xâm lược như thế nào?
Triều đình kí Hiệp ước Nhâm Tuất vào năm nào?
Ai là người chủ trương giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cải cách?
Nhân vật tiêu biểu cho phong trào đấu tranh theo khuynh hướng mới ?
“Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hoà Dân quốc Việt Nam” là tôn chỉ hoạt động của tổ chức nào ?
Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất nào du nhập vào Việt Nam ?
Phồn Xương là căn cứ của cuộc khởi nghĩa nào?
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất Pháp chú trọng khai thác lĩnh vực nào nhiều nhất ?
Viên toàn quyền Pháp chỉ huy chương trình khai thác Đông Dương lần thứ nhất là ai?
Năm 1908 tại Hà Nội diễn ra sự kiện nào?
Hãy nêu những đặc điểm của phong trào yêu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỉ XIX đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Lập niên biểu về những sự kiện chủ yếu trong phong trào Cần Vương.
Sưu tầm tài liệu và trình bày về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh.
Chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng từ thời gian nào?
A. Thế kỉ XVII
B. Thế kỉ XVIII
C. Đầu thế kỉ XIX
D. Giữa thế kỉ XIX
Thực dân Pháp triển khai âm mưu xâm lược Việt Nam thông qua hoạt động nào?
A. Điều tra, tìm hiểu tình hình Việt Nam
B. Thông qua hoạt động của các giáo sĩ trong hội truyền giáo nước ngoài của Pháp để thiết lập cơ sở về chính trị, xã hội cần thiết.
C. Mua chuộc quan lại nhà Nguyễn
D. Thông qua hoạt động của các thương nhân Pháp tại Việt Nam
Trước nguy cơ xâm lược từ tư bản phương Tây, yêu cầu lịch sử đặt ra đối với nước ta là gì?
A. Cải cách - duy tân đất nước để tự cường, cải thiện đời sống nhân dân.
B. Tăng cường liên kết với các nước trong khu vực để tăng tiềm lực kinh tế, quốc phòng.
C. "Đóng cửa" không giao lưu với phương Tây để tránh những tác động tiêu cực.
D. Thực hiện chính sách "Cấm đạo" triệt để.
Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào thời điểm nào?
A. Cuối thế kỉ XVIII
B. Giữa thế kỉ XIX
C. Cuối thế kỉ XVIII
D. Đầu thế kỉ XX
Nguyên nhân chủ yếu khiến Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp là
A. Quân và dân Việt Nam không kiên quyết chống Pháp xâm lược
B. Vua quan nhà Nguyễn thiếu ý chí quyết tâm và không có đường lối lãnh đạo đúng đắn, kịp thời
C. Nhân dân không ủng hộ cuộc kháng chiến của triều đình
D. Quân ta không được trang bị vũ khí hiện đại
Một phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta diễn ra khắp Bắc Kì, Trung Kì những năm cuối thế kỉ XIX là
A. Phong trào Cần Vương
B. Phong trào "tị địa"
C. Phong trào cải cách - duy tân đất nước
D. Phong trào nông dân Yên Thế
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thất bại của phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX là gì?
A. Triều đình phong kiến đã đầu hàng hoàn toàn
B. Kẻ thù đã áp đặt được ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam
C. Thiếu một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực và đề ra đường lối đúng để lãnh đạo phong trào
D. Việt Nam là một nước phong kiến lạc hậu
Thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai thác, bóc lột có quy mô và hệ thống trên toàn cõi Đông Dương khi nào?
A. Sau khi kí hiệp ước 1862
B. Sau khi kí hiệp ước 1874
C. Sau khi kí hiệp ước 1883
D. Từ năm 1897
Mục đích của Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX là
A. Khai hóa văn minh cho Việt Nam - một nước phong kiến lạc hậu
B. Biến Việt Nam thành nơi cung cấp tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt để làm giàu cho nước Pháp
C. Mang lại nguồn lợi cho cả Pháp và Việt Nam
D. Phát triển kinh tế để xoa dịu mâu thuẫn xã hội, dân tộc
Tính chất xã hội Việt Nam sau khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta là
A. xã hội thuộc địa.
B. xã hội phong kiến nửa thuộc địa.
C. xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
D. xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến.
Lực lượng có vai trò tiên phong trong phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX là:
A. Văn thân, sĩ phu yêu nước
B. Văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ
C. Công nhân
D. Tư sản và tiểu tư sản
Yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra đối với phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX là gì?
A. Thống nhất các lực lượng chống Pháp, đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất
B. Đưa người ra nước ngoài học tập để chuẩn bị cho công cuộc cứu nước lâu dài
C. Phải tìm ra một con đường cứu nước mới, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân
D. Gồm tất cả các yêu cầu trên
Ai là người đã nhận thức đúng đắn yêu cầu đó và có quyết định bước đầu phù hợp?
A. Phan Bội Châu
B. Phan Châu Trinh
C. Hoàng Hoa Thám
D. Nguyễn Tất Thành
Vào giữa thế kỉ XIX, trong lúc xã hội Việt Nam đang lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, sâu sắc và đứng trước nguy cơ xâm lược của tư bản phương Tây, vua Tự Đức lại chủ truơng "đóng cửa" và "cấm đạo". Theo em, việc làm đó có ảnh huởng đến sự phát triển của đất nước không ? Vì sao ?
Hãy hoàn thiện sơ đồ dưới đây để biểu thị những nhân tố mới nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Hãy điền chữ Đ vào ô trước câu đúng hoặc chữ S vào ô trước câu sai về các giai cấp và tầng lớp xã hội ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
1. Giai cấp công nhân ra đời nhưng đang ở trong giai đoạn tự phát.
2. Tư sản và tiểu tư sản mới được hình thành đang trong quá trình tập hợp về số lượng và trưởng thành về ý thức.
3. Tư sản và tiểu tư sản đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu những luồng tư tưởng mới để dấy lên một cuộc vận động yêu nước tiến bộ mang màu sắc dân chủ tư sản.
4. Giai cấp công nhân nắm vai trò lãnh đạo các cuộc đấu tranh của nhân dân ta.
5. Nông dân là những người tiếp thu những luồng tư tưởng cách mạng mới
Điền vào bảng hệ thống kiến thức những nội dung phù hợp về đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỉ XIX đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
A. Quảng Bình
B. Quảng Trị
C. Thừa Thiên Huế
D. Quảng Nam
Câu trả lời của bạn
Sau khi vào đất Thuận Hóa năm 1558, Nguyễn Hoàng đóng dinh ở Ái Tử thuộc huyện Triệu Phong của tỉnh Quảng Trị ngày nay.
A. Phùng Khắc Khoan
B. Lương Đắc Bằng
C. Nguyễn Trực
D. Nguyễn Bỉnh Khiêm
Câu trả lời của bạn
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng nên vào Nam xây dựng cơ đồ với câu nói nổi tiếng: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” - một dãy Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời.
A. Dương Thị
B. Đặng Thị Huệ
C. Tống Thị Lan
D. Tống Thị
Câu trả lời của bạn
Theo chính sử triều Nguyễn, Tống Thị vốn là con gái của Tống Phước Thông. Bà là con dâu chúa Sãi, sau đó mê hoặc chúa Thượng khiến chúa chỉ biết ăn chơi, không quan tâm triều chính, gian thần nổi lên, triều đình nghiên ngả. Về sau, Tống Thị bị giết chết.
A. Chúa Võ
B. Chúa Ninh
C. Chúa Định
D. Chúa Minh
Câu trả lời của bạn
Vị chúa cuối cùng của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong là chúa Định Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), bị nhà Tây Sơn lật đổ.
dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân pháp thì nền kinh tế việt nam có những chuyển biến như thế nào
Câu trả lời của bạn
A. 6
B. 7
C. 8
D. 9
Câu trả lời của bạn
Từ khi vào Nam năm 1558 đến lúc bị nhà Tây Sơn lật đổ năm 1777, 9 đời chúa Nguyễn thay nhau trị vì Đàng Trong.
Chứng minh văn hóa Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ phong phú, đa dạng và thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
Câu trả lời của bạn
Cùng với sự lớn mạnh về chính trị và kinh tế, các vương triều Lý, Trần, Hồ đã chứng kiến một sự phát triển rực rỡ về văn hoá. Đây là giai đoạn thịnh đạt của nền văn hóa Đại Việt. Như Lê Quý Đôn đã nhận định “Nước Nam Ở hai triều Lý, Trần nổi tiếng là văn minh”.
Đây là những thế kỷ phục hưng của nền văn hóa Việt cổ bản địa (văn minh Văn Lang – Âu Lạc) trên nền tảng của sự khôi phục độc lập dân tộc và sự giữ vững chủ quyền quốc gia qua những cuộc kháng chiến của Đại Việt chống Tống, Nguyên thắng lợi. Vị thế độc lập về chính trị – dẫn đến ý thức độc lập về văn hóa “Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau” (lời Trần Nghệ Tông). Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tìm về cội nguồn đã thấm đậm trong môi trường văn hóa thời Lý -Trần.
Cùng với sự phục hưng, văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần – Hồ đã trở nên phong phú và phát triển ở một tầm cao mới qua một quá trình tiếp biến và tích hợp văn hóa. Trên cơ sở cốt lõi của nền văn hóa Việt cổ, với tư cách là những vương triều phong kiến độc lập, các triều đình Lý, Trần đã tự nguyện, chủ động tiếp thu và cải biến những yếu tố của văn hóa Đông Á Trung Hoa, cũng như của nền văn hóa Champa phương Nam chịu ảnh hưởng Ấn Độ, tích hợp vào nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên lúc này, những ảnh hưởng văn hóa ngoại sinh du nhập còn ở mức độ hạn chế, được gạn lọc luyện hợp thành những yếu tố nội sinh.
Cũng như về mặt xã hội, văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần – Hồ đã pha trộn và hỗn dung giữa những yếu tố Nam Á và Đông Á trong một vị thế cân bằng văn hóa. Sự cân bằng đó thể hiện trong tính đối trọng lưỡng nguyên và đan xen giữa Phật, Đạo và Nho, giữa văn hóa dân gian làng xã và văn hóa quan liêu cung đình. Xu hướng phát triển là từ yếu tố vượt trội của văn hóa Nam Á dân gian Phật giáo trong thời kỳ đầu chuyển dần sang sắc thái văn hóa Đông Á quan liêu Nho giáo trong giai đoạn cuối.
Nguồn: Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 94-95
Tôn giáo tín ngưỡng
Nhìn chung, các nhà nước Lý – Trần đã chủ trương một chính sách khoan dung hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo như tín ngưỡng dân gian, Phật, Đạo, Nho. Đó chính là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên, Tam giáo tịnh tồn ở thời kỳ này. Nói như Phan Huy Chú, “thời Lý – Trần, dù là chính đạo hay dị đoan đều được tôn chuộng, không phân biệt”. Trên nền tảng đó, nhìn chung các tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo đã được tôn sùng.
Các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật linh, tục thờ Mẫu, tục sùng bái anh hùng, pha trộn với Đạo giáo đã được tự do phát triển và khuyến khích. Trong hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái, rất nhiều vị thiên thần và nhân thần, các anh hùng và danh nhân đã được truyền thuyết hóa và tôn vinh. Theo dã sử, đời Lý Thần Tông, có Trần Lộc, dựa trên các tín ngưỡng dân gian đã lập nên đạo Nội tràng. Hình tượng Phật Mẫu Man nương (có nguồn gốc từ chùa Dâu) đã được sùng bái, thờ cúng ở rất nhiều nơi.
Các đạo sĩ Đạo giáo đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh thời Lý – Trần. Họ được triều đình mời đi trấn yểm các núi sông trong nước, vào cung làm lễ tống trừ ma quỷ đêm 30 Tết, làm phép cầu đảo chống hạn, trừ sâu lúa, giảng giải cho vua về phép tu luyện. Những đạo sĩ nổi tiếng là Thông Huyền, Hứa Tông Đạo Huyền Vân. Một số đạo sĩ kiêm thiền tăng như Trần Tuệ Long, Trịnh Trí Không, Nguyễn Bình An. Một số đạo quán đã được xây dựng như Thái Thanh cung, Cảnh Linh cung, Ngã Nhạc quán. Đạo học, cùng với Phật học và Nho học đã được đưa vào nội dung các kỳ thi Tam giáo.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý- Trần, được coi như một Quốc giáo. Hầu hết các vua Lý (Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thần Tông, Anh Tông) và nhiều vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông) đều sùng Phật, sai dựng chùa tháp, tô tượng đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật…. Như năm 1031, vua Lý xuống chiếu phát tiền, thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ. Nhiều quý tộc tôn thất đã quy Phật như Hoàng hậu Ỷ Lan, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung. Khắp nơi, nhiều chùa chiền đã được xây dựng như các chùa Diên Hựu (Một Cột), Phật Tích, Long Đội, Báo Thiên, Bối Khê, Thái Lạc, Phổ Minh, cụm quần thể chùa tháp ở Yên Tử. Phần lớn các công trình này đã được nhà nước tài trợ. Đông đảo quần chúng bình dân trong làng xã nô nức theo đạo Phật. Lê Quát sống vào cuối đời Trần, nhận xét :”Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiền… Dân chúng quá nửa nước là sư…”.
Thời Lý – Trần, có rất nhiều vị sư tăng nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và địa vị chính trị- xã hội. Có thể kể các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa Huyền Quang. Có 3 tông phái chủ yếu: Tịnh Độ tông thờ đúc Phật Adiđà, chú trọng đến lễ thức lên chùa lễ Phật, phổ biến trong quần chúng bình dân làng xã; Mật tông là tông phái Phật giáo có sử dụng nhiều phép lạ, phần nào có ảnh hưởng của Đạo giáo (như các nhà sư Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không) ; Thiền tông vốn có truyền thống từ lâu, là tông phái có thế lực lớn nhất, chú trọng đến thiền định về tư tưởng, chủ trương Phật tại Tâm, được các giới quý tộc, trí thức hâm mộ. Có 2 phái Thiền tông chính: Phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông sáng lập, có nơi trụ trì chính là chùa Khai Quốc (Trấn Quốc, Hà Nội); phổ biến hơn cả là phái Trúc Lâm, do 3 vị tổ sáng lập:Trần Nhân Tông (tức Điều Ngự Giác Hoàng), Pháp Loa và Huyền Quang, nơi trụ trì chính là cụm chùa ở núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh).
Nhà nước Lý – Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hòa hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật và Nho, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống. Trần Thái Tông nói : “Đạo giáo của đức Phật là để mở lòng mê muội, là con đường tỏ rõ lẽ tử sinh. Còn trách nhiệm nặng nề của tiên thánh tà đặt mực thước cho tương lai,nêu khuôn phép cho hậu thế”. Trần Nhân Tông thì chủ trương “Sống với đời, vui vì đạo” (Cư trần lạc đạo). Đạo Phật thời Lý – Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà nước (chính sách thân dân, khoan dung), là đối trọng tư tưởng của Nho giáo, tạo nên thế cân bằng tôn giáo.
Cuối thời Trần, khi Nho giáo và Nho học phát triển, trong điều kiện xuất hiện một bộ phận tăng ni biến chất và thoái hóa, Phật giáo đã bước đầu bị một số nho sĩ như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu bài xích. Hồ Quý Ly ra lệnh sa thải bớt tăng đồ, ai chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn rất sâ đậm trong xã hội, nhất là trong các làng xã.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng Nho giáo thòi Lý – Trần đã có xu hướng phát triển ngượ lại với Phật giáo. Trong khi thế lực Phật giáo có chiều hướng suy giảm dần, thì thế lực của Nho giáo lại ngày càng tăng tiến, từ chỗ lúc đầu mới chỉ là một nền văn hóa giáo dục được nhà nước phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc dùng làm học thuyết trị nước tới chỗ sau đó (thời cuối Trần) đã trở nên một ý thức hệ đang trên đà thống trị xã hội.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương thức giao lưu văn hóa cưỡng chế, vì vậy, trong hơn 10 thế kỷ, nó vẫn chỉ là một lớp váng mỏng đọng lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng xã hội rất nhỏ bé. Đến thời Lý – Trần, nó đã trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dụng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Do vậy, các nhà vua sùng Phật thời Lý – Trần vẫn cần đến một sự bổ trợ của Nho giáo. Trần Thái Tông nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau. Như thế đủ biết đạo giáo của Đức Phật phải nhờ đến tiên thánh [chỉ Khổng Mạnh] mà truyền lại cho đời…”..
Thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Năm 1070,Văn Miếu được xây dựng, thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiề, làm nơi dạy học Hoàng Thái tử. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi Thái học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh;năm 1076, mở trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1086, Triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích được tuyển bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần, Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học được mở, khoa cử đều kỳ hơn. Các vua Trần đã cố gắng dung hòa Phật – Nho trong đường lối trị nước. Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An… Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ dành cho tầng lớp quý tộc tông thất. Trường hợp của Đoàn Nhữ Hài, từ một nho sinh giúp vua làm tờ biểu tạ tội, sau được thăng đến chức Hành khiển, là một ví dụ tiêu biểu.
Thời cuối Trần, quá trình Nho giáo hóa đời sống chính trị – xã hội đã diễn ra một cách quanh co phức tạp. Một mặt, một số Nho sĩ đã nhiệt thành cổ vũ tuyên truyền cho đạo Nho và mô hình Nho giáo, bài xích Phật giáo. Trương Hán Siêu tuyên bố: “Đã là kẻ sĩ đại phu, nếu không phải đạo Nghiêu Thuấn, không bày tỏ, không phải đạo Khổng Mạnh, không trước thuật…”. Nhóm nho sĩ Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đề nghị triều đình tiến hành cải cách thể chế theo hướng Nho giáo hóa, mô phỏng thiết chế Trung Hoa nhà Minh. Mặt khác, quá trình Nho giáo hóa đã gặp sự phản ứng từ nhiều phía, trước hết từ chính bản thân một số vua Trần. Minh Tông cho rằng “nhà nước đã có phép tắt nhất định, Nam Bắc khác nhau”. Nghệ Tông kiên quyết phản bác: “Triều trước [nhà Lý] dựng nước , có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị [đời Trần Dụ Tông] bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc như về y phục, âm nhạc… thật không kể xiết”. Và nhà vua này chủ trương bảo lưu thể chế cũ.
Ở các làng xã, quá trình Nho giáo hóa lại càng mờ nhạt hơn. .Dân chúng vẫn sống theo những phong tục cổ truyền, chưa bị ràng buộc bởi những quy phạm Nho giáo. Sứ giả Trung Quốc Trần Cương Trung sang Việt Nam đời Trần nhận định : “Dân chúng vẫn giữ những phong tục rất nông nổi. Không biết đến lễ nhạc Trung Hoa”. Nho thần Lê Quát phàn nàn : “Ta thuở trẻ đọc sách, ít nhiều hiểu đạo thánh hiền để giáo hoá dân chúng, mà rút cuộc vẫn chưa được một hương nào tin theo. Ta thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi tìm những học cung, văn miếu mà chưa hề thấy một ngôi nào. Đó là điều khiên ta vô cùng hổ thẹn.”
Trong khuôn khổ những cải cách của mình nhằm xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền mạnh, Hồ Quý Ly đã đẩy mạnh quá trình Nho giáo hóa xã hội Đại Việt như cho dịch và chú giải các Kinh Thư, Kinh Thi, mở trường Nho học ở các địa phương và tổ chức thi Hương. Tuy nhiên, ở đây là một thứ Nho giáo thực dụng, không giáo điều và có phần sáng tạo độc lập, dung hợp với những tư tưởng Pháp gia nhằm nâng cao hiệu quả công việc trị nước.
Nguồn: Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 95 đến 99
Giáo dục, khoa cử
Thời đầu Lý, nền giáo dục Đại Việt có thể chủ yếu là Phật học. Lý Công Uẩn đã học ở chùa Lục Tổ. Các sư tăng đồng thời cũng là những trí thức. Dần dần, cũng như Nho giáo, giáo dục khoa cử Nho học ngày càng phát triển.
Thời Lý – Trần, Nho học phát triển từ trên xuống dưới. Năm 1070, Văn Miếu được thành lập, cũng là nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái tử. Lúc đầu, khi mới mở trường Quốc Tử Giám (1076), chỉ có các quý tộc quan liêu và con em được theo học. Nhìn chung, việc giáo dục Nho học ở thời Lý còn khá hạn chế.
Giáo dục Nho học đã có nhiều tiến bộ dưới thời Trần. Quốc Tử Giám, với những tên gọi mới (Quốc tử viện, Quốc học viện) đã được củng cố và mở rộng đối tượng học tập. Năm 1236, đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con em văn thần và tụng thần [chức quan tư pháp] vào học. Năm 1253, Nhà nước sai sửa sang Quốc học viện, đắp tượng Không Tử, Chu Công và Mạnh Tử, vẽ tranh Thất thập nhị hiền để thờ, lại xuống chiếu vời Nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng Tứ thư lục kinh. Năm 1272, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư, Ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách.
Ngoài Quốc tử viện là một loại trường Nho học cấp cao, thời Trần còn một số trường Nho học khác. Ta có thể kể : trường phủ Thiên Trường, trường Lạn Kha thư viện (ở chùa Phật Tích), trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc và trường Cung Hoàng của Nho sĩ Chu Văn An, trước đó đã từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1397, triều đình lại đã chính thức sai đặt nhà học và chức học quan (được nhà nước trợ cấp phần ruộng công thu hoa lợi) ở các lộ phủ địa phương như Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, với chức năng là “giáo hóa dân chúng, giữ.gìn phong tục, dạy bảo học trò thành tài nghệ, chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình”.
Cùng với giáo dục, khoa cử ở Đại Việt đã có từ thời Lý. Năm 1075, mở khoá thi Minh kinh bác sĩ Nho học đầu tiên. Lê Văn Thịnh người Bắc Ninh là người đỗ đầu Thái học sinh (Tiến sĩ sau này), được đưa vào giúp vua học, sau này thăng đến chức Thái sư. Tuy nhiên, Nho học và khoa cử thời Lý vẫn chưa ổn định. Sau vụ Lê Văn Thịnh bị buộc tội mưu phản (có thể là kết quả của một âm mưu chống Nho học của các thế lực Phật giáo), khoa cử hầu như đã bị đình hoãn lại. Cả triều Lý có 3 khoa thi. Năm 1195, nhà Lý có mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo), loại thi này còn tồn tại đến đầu thời Trần.
Các kỳ thi Thái học sinh đời Trần được tổ chức quy củ và thường xuyên hơn, niên hạn là 7 năm một kỳ. Cả thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp). Có một thời gian. nhà Trần đã chia thành hai loại Trạng nguyên: Kinh Trạng nguyên và Trại Trang nguyên (dành riêng cho vùng Thanh – Nghệ). Các vị tân khoa được nhà vua trọng đãi: ban mũ áo, dự yến tiệc, được dẫn đi thăm kinh thành Thăng Long trong 3 ngày. Có một số người đỗ đại khoa khi tuổi đời còn rất trẻ: Trạng nguyên Nguyễn Hiền (l3 tuổi), Bảng nhãn Lê Văn Hưu (18 tuổi), Thám hoa Đặng Ma La (14 tuổi), Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi).
Quy trình và nội dung khoa cử đời Trần lúc đầu gồm 4 kỳ, lần lượt là các bài thi : ám tả cổ văn, kinh nghĩa và thơ phú, chiếu chế biểu và đối sách (văn sách). Năm 1397, Hồ Quý Ly cải cách thi cử. Nội dung của 4 kỳ thi bỏ ám tả cổ văn và được sắp xếp lại : kinh nghĩa, thơ phú, chiếu chế biếu và văn sách. Đồng thời, bắt đầu tổ chức thi Hương ở địa phương.
Khoa cử được tiếp tục dưới triều Hồ (2 khoa). Nguyễn Trãi là người thi đỗ Thái học sinh năm 1400. Hồ Hán Thương đã tiếp tục cải cách thi cử, đưa thêm vào môn toán và viết chữ.
Nguồn: Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 99 đến 100
Văn học nghệ thuật
Văn học thời Lý- Trần phản ánh những tư tưởng và tình cảm của con người thời đại, nhìn chung mang nhiều yếu lố tích cực, lạc quan của những
vương triều đang ở thế đi lên. Cơ sở tư tưởng của nó là Phật giáo và Nho giáo. Có 2 dòng văn học chính : văn học Phật giáo và văn học yêu nước dân tộc.
Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý – Trần chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền tông. Nó bao gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo, cùng là những tác phẩm về lịch sử Phật giáo thời Lý – Trần. Nhiều bài thơ phú, kệ, minh do các sư tăng trí thức viết, bàn về các khái niệm sắc – không, tử – sinh, hưng – vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con người và thiên nhiên, phản ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và thời đại. Sư Mãn Giác để lại những câu thơ nổi tiếng về cảm hứng đó.
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(nghĩa là : Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý nhà Phật như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tông chi nam của Trần Thái Tông, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung. Về lịch sử Phật giáo có các cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam tổ thực lục nói về thiền phái Trúc tâm. Một số cuốn sách, cùng với những bản kinh Phật giáo, đã được nhà nước cho đem khắc in và phổ biến.
Dòng thơ văn yêu nước, dân tộc cũng đã giữ một vị trí rất quan trọng trong thơ văn Lý – Trần. Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc, lòng trung quân ái quốc cũng như lòng tự hào dân tộc qua những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Thuộc loại này có thể kể bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Phú sông Bạnh Đằng của Trương Hán Siêu, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng Nguyên như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân Tông:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
Một số tác phẩm đã nói lên ý thức tìm về cội nguồn, sưu tập những truyền thuyết, thần tích nói về lịch sử và nhân vật lịch sử thời quốc sơ Văn Lang – Âu Lạc cũng như các thời kỳ sau. Hai tác phẩm tiêu biểu là Việt Điện u linh của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp.
Tinh thần dân tộc cũng đã được thể hiện trong các bộ quốc sử. Có thể kể đến Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Đại Việt sử lượt (hay Việt sử lược) của một tác giả khuyết danh. Nổi tiếng là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, được coi là bộ chính sử đầu tiên của Việt Nam. Hai tác phẩm An Nam chí lược của Lê Trắc và Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng được viết ở Trung Quốc, cũng có nhiều đóng góp cho sự tìm hiểu lịch sử, nhân vật lịch sử điển chương và địa chí của Đại Việt thời Lý – Trần.
Một thành tựu quan trọng của văn học Lý- Trần là việc phổ biến chữ Nôm, vừa mang tính dân tộc (Nam Nôm), vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt hóa chữ Hán. Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “ Quốc âm”.
Chữ Nôm có thể đã xuất hiện từ lâu (thời Bắc thuộc) nhưng chưa phổ biến. Thời Lý, người ta có thể tìm thấy một số dấu vết chữ Nôm trên một số chuông đồng (chùa Vân Bản, Đồ Sơn) và văn bia (bia chùa Báo Ân, Vĩnh Phúc). Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm được phổ biến với giai thoại về Nguyễn Thuyên (sau được đổi là Hàn Thuyên) viết bài Văn tế cá sấu bằng văn Nôm. Một số tác giả khác được biết cũng sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm như Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An (viết cuốn Quốc âm thi tập, nay không còn), Hồ Quý Ly. Chữ Nôm cũng đã được phổ biến trong dân gian như một số câu vè châm biếm cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa và vua Champa Chế Mân, hoặc việc Trần Nguyên Đán kết giao với Hồ Quý Ly. Một số câu thơ Nôm cũng thấy trong các cuốn Lĩnh Nam chích quái (truyện Hà Ô Lôi) hoặc trong Tam tổ thực lục (giai thoại về sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích). Chữ Nôm còn được dùng để ghi chép một số bản nhạc, ca khúc thời kỳ này.
Thời Lý – Trần – Hồ cũng để lại nhiều công trình về nghệ thuật kiến trúc- điêu khắc. Nhìn chung, kiến trúc thời Lý mang tính hoành tráng, quy mô; kiến trúc thời Trần mang tính thực dụng, khoẻ khoắn. Tinh thần Phật giáo đã thấm đượm trong các công trình này.
Cung điện và thành quách là những công trình kiến trúc do nhà nước đứng ra chỉ huy xây dựng, huy động sức lực của dân chúng theo chế độ lao dịch, trưng tập và phần nào là lao động làm thuê.
Thành Thăng Long (với 3 vòng thành Đại La, Hoàng thành và Cấm thành) là công trình kiến trúc lớn thời Lý – Trần. Hoàng thành mở ra 4 cửa: Tường Phù (Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam) và Diệu Đức (Bắc). Thời Lý có các điện Càn Nguyên (sau đổi thành Thiên An), Tập Hiền, Giảng Võ, các cung Long Thuỵ, Thuỷ Hoa, lầu Chính Dương coi giờ giấc, điện Long Trì đặt chuông thỉnh nguyện ngoài thềm. Thời Trần có các cung điện Quan Triều (vua ở), Thánh Từ (Thượng hoàng ở), Thiên An (vua làm việc), Tập Hiền (tiếp sứ), Diên Hồng (mở hội nghị….). Hòa vào các cung điện là một cảnh quan thiên nhiên được bố trí lộng lẫy và xứng hợp như các hồ, ngòi, vườn tược, cầu cống, vườn bách thảo bách thú v.v… Một số lớn các cung điện được xây dựng bằng gỗ, sơn son thếp vàng, đã bị hủy hoại qua chiến tranh.
Các cung điện ở khu Tức Mặc – Thiên Trường (Nam Định) là nơi các Thượng hoàng đời Trần lui về ở và làm việc. Thời đầu Trần, Phùng Tá Chu là người được giao trọng trách xây dựng khu cung điện này, được coi như một kinh đô thứ hai. Nổi tiếng nhất là hai cung Trùng Quang và Trùng Hoa. Chung quanh còn có các khu biểu diễn nghệ thuật (múa hát, bơi thuyền, đánh cờ, múa bông) và khu kinh tế (chăn nuôi, chế biến, làm đồ gốm). Gạch ngói ở đây được in dòng chữ “Thiên Trường phủ chê”.
Thành nhà Hồ (An Tôn, Vinh Lộc, Thanh Hóa), còn gọi là Tây Đô, là công trình kiến trúc đồ sộ và độc đáo bằng đá, xây dựng thời cuối Trần tồn tại qua 6 thế kỷ. Diện tích thành khá rộng (khoảng 630.000 m2), ngoài thành có lũy đất trồng tre gai, sát thành có hào nước sâu bảo vệ. Riêng tòa thành hiện còn cao gần 6m, xây ghép bằng những phiến đá tảng nguyên khối, có phiến dài 7m, nặng 17 tấn, với nhiều cửa vòm kiên cố, trên có vọng lâu. Trong thành còn có một số di vật như các viên gạch đắp hoa, rồng đá, sấu đá.
Cùng với thành quách, thời Lý- Trần còn có các khu lăng mộ và phủ đệ. Nhà Lý có khu sơn lăng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), nhà Trần có khu lăng mộ ở Long Hưng (Thái Bình) và An Sinh (Đông Triều), với nhiều tượng đá khắc họa hình người và muông thú. Các dinh thự của quý tộc đời Trần xây dựng ở các địa phương trấn trị, một số có quy mô đồ sộ, như phủ đệ của Trần Quốc Khang Ở Diễn Châu (Nghệ An).
Chùa tháp là kiến trúc Phật giáo đặc biệt thời Lý- Trần. Chùa làng có số lượng rất nhiều, nhưng quy mô thường nhỏ, kiến trúc đơn giản. Một số ngôi chùa có kiến trúc độc đáo hoặc quy mô bề thế. Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Thăng Long mô phỏng hình ảnh một đóa hoa sen mọc trên hồ nước, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên. Chùa Phật Tích, Long Đội và quần thể chùa ở Yên Tử đều được xây dựng trên núi cao, cảnh trí kỳ vĩ. Chùa Thái Lạc và ‘Phổ Minh có những bức phù điêu chạm trổ độc đáo.
Tháp Phật có nguồn gốc từ các stupa ở Ấn Độ được biến cách, là những kiến trúc tưởng niệm, khá phổ biến ở thời Lý- Trần. Tháp Báo Thiên (nay không còn) xây dựng đời Lý, ở giữa kinh thành Thăng Long có 12 tầng. Những tháp đời Trần còn lại là tháp Phổ Minh (Nam Định) 14 tầng, tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc) 11 tầng. Tương truyền trong bảo tháp có chứa đựng tro xương của các vị sư tổ kết tinh lại, gọi là xá lị, như xá lị của Trần Nhân Tông trong lòng tháp Phổ Minh.
Điêu khắc và đúc tạo hình thời Lý-Trần có các loại tượng. chuông, vạc, các bức phù điêu. Ngoài các tượng Chu Công, Không Tử, Tứ Phối được bày trong Văn Miếu, phổ biến là các tượng Phật, nổi tiếng nhất là pho tượng đá Adiđà ở chùa Phật Tích và pho Di Lặc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm. Năm 1231, triều đình đã xuống chiếu sai tô tượng Phật để thờ ở tất cả những nơi có đình trạm (trạm nghỉ dọc đường). Năm l256, sai đúc 330 quả chuông. Những chuông đồng nổi tiếng là chuông chùa Sùng Khánh Báo Thiên (nặng 12000 cân) và chuông Quy Điền khổng lồ ở chùa Diên Hựu. Vạc đồng lớn ở chùa Phổ Minh cũng là một sản phẩm đúc nổi tiếng, được người Trung Quốc xếp vào danh mục “An Nam tứ đại khí” (chỏm tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm).
Các bức phù điêu đời Lý- Trần phần lớn đều chạm khắc các hình tượng Phật giáo (toà sen, lá đề, sóng nước), hình tượng các tiên nữ múa hát, các hình tượng rồng uốn khúc (loại rồng giun đơn giản và khoẻ khoắn). Các bức phù điêu chạm khắc gỗ nổi tiếng ở chùa Thái Lạc và chùa Phổ Minh. Tại khu lăng vua Trần, có nhiều tượng người và thú vật bằng đá. Trong điêu khắc Lý- Trần, có ảnh hưởng của nhiều yếu tố mỹ thuật Champa.
Thuộc mỹ thuật thời Lý- Trần, còn có các đồ gốm, dáng hình đơn giản, thanh thoát. Có các loại men đàn hoa nâu, men hoa lam và loại men ngọc trắng xanh nổi tiếng. Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý- Trần phát triển phong phú, chịu ảnh hưởng của cả nghệ thuật Nam Á và Đông Á, được biểu diễn rộng rãi trong dân gian cũng như được ưa chuộng trong sinh hoạt cung đình.
Nghệ nhân sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm choẹ, trống cơm (phạn cổ ba, gốc Chăm), các loại đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thất huyền, đàn Ba lỗ (gốc Chăm), các khúc ca “Trang Chu mộng điệp”, “Bạch lạc Thiên mẫu biệt tử”, “Đạp ca”, “Thanh ca”, “Ngọc lân xuân”, “Nam thiên”, “Tây thiên”, “Lý liên”, “Mộng tiên du”, “Canh lậu trường”… Trong các buổi tiệc yến ở điện Tập hiền, có biểu diễn ca vũ của các đào, kép. Sứ giả Trung Quốc tả : “Con gái đi chân không, mười ngón tay dịu dàng đứng múa, hơn 10 người con trai mình đều cởi trần, kề vai giậm chân, quây quần chung quanh mà hát theo…”. Chèo, tuồng được nhiều người ưa chuộng, tích diễn phổ biến là vở “ Tây vương mẫu hiến bàn đào”.
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ đời Lý, có liên quan đến nhà sư Từ Đạo Hạnh, đã được trình diễn trong các hội đèn Quảng Chiếu, với nhiều trò rất sinh động. Trong các lễ hội, có nhiều trò vui tạp kỹ mang tính dân gian như đấu vật, chọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu, trò nhại, hất phết, cưỡi ngựa đánh cầu… Đinh Bàng Đức, nối tiếng về trò leo dây, múa rối, Trần Cụ là người giỏi xuất sắc trong môn bắn nỏ, đá cầu. Một số vua Trần thường tổ chức các cuộc thi ca múa trong giới quý tộc. Trần Nhật Duật được coi là người sành điệu nổi tiếng. Các chùa chiền cũng tổ chức nhiều lễ hội đông vui như hội Thiên Phật ở chùa Quỳnh Lâm và hội Vô Lượng ở chùa Phổ Minh.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật thời Lý- Trần- Hồ chủ yếu được biết ở một số ngành như y học cổ truyền, thiên văn lịch pháp, đóng thuyền chiến, cũng như những kỹ thuật truyền thống trong các nghề luyện đúc đồng, dệt, gốm, xây dựng…
Danh y Phạm Bân nổi tiếng về y đức, trách nhiệm đối với người bệnh. Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) đề cao tác đụng của thuốc nam (với nhiều vị quy như sâm, trầm, củ mài…) là tác giả bộ Nam dược thần hiệu (có 580 vị thuốc nam, 3873 phương thuốc trị 184 loại bệnh). Các thày thuốc Trâu Tôn, Trâu Canh (người gốc Hoa) hay Nguyễn Đại Năng đã có nhiều kết quả về khoa châm cứu.
Kỹ thuật xây dựng và tính toán đã đạt đến trình độ cao trong các công trình thành quách (như thành Tây Đô), cung điện, chùa tháp. Phùng Tá Chu là người nổi tiếng trong việc xây dựng cung Thiên Trường.
Về thiên văn lịch pháp, Đặng Lộ đã sáng chế ra “Linh lung nghi” là một dụng cụ chiêm nghiệm chính xác thiên văn khí tượng, còn là người đã đổi lịch Thụ thời ra lịch Hiệp kỷ. Trần Nguyên Đán thông thạo lịch pháp, là tác giả cuốn Bách thế thông kỷ thư chép về các hiện tượng nhật nguyệt thực trong nhiều thế kỷ, cũng là người đổi lịch Hiệp kỷ thành lịch Thuận thiên.
Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra loại súng lớn thần cơ sang pháo đúc bằng đồng, chuyên chở trên xe, có bầu nhồi thuốc và lỗ đặt ngòi. Cổ lâu thuyền tải lương là loại thuyền chiến lớn hai tầng, bên trên có đường sàn, bên dưới cứ hai người chèo một mái chèo, tốc độ nhanh.
Văn hóa Lý – Trần – Hồ là giai đoạn phát triển thịnh đạt của văn hóa Đại Việt. Văn hóa Lý – Trần – Hồ đã chủ động khôi phục lại những yếu tố văn hóa Việt cổ đồng thời cải biến tích hợp những yếu tố văn hóa ngoại sinh, tạo nên một phong cách riêng cho mình. Văn hóa Đại Việt thời Lý-Trần- Hồ, vì thế, đã mang tính dân tộc sâu sắc.
Cũng dựa trên sự cân bằng văn hoá, văn hóa Lý – Trần – Hồ là sự hỗn dung của dòng văn hóa dân gian với dòng văn hóa cung đình, giữa những yếu tố bình dân với những yếu tố bác học, giữa Phật – Đạo và Nho. Gam màu nổi bật của văn hóa thời kỳ này là sự ưu trội của dòng văn hóa dân gian, đan xen vào sinh hoạt văn hóa cung đình, tuy xu thế phát triển của nó là ngả dần sang văn hóa Đông Á Nho giáo. Văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần – Hồ đã mang đậm tính dân gian.
Đậm đà màu sắc Phật – Đạo và dân gian, ảnh hưởng của Nho giáo còn ở mức khiêm tốn, văn hóa Lý- Trần- Hồ không bị ràng buộc nhiều bởi những giáo điều, tín điều. Khái niệm “lễ” trong Nho giáo ở thời Lý- Trần-Hồ còn rất nhạt, thay vào đấy là tính cởi mở, nhân bản, gần gũi con người với một “mép lề phóng khoáng”. Văn hóa Đại Việt thời kỳ này do vậy, hàm chứa nhiều tinh thần khai phóng.
Văn hóa Đại Việt thời Lý – Trần – Hồ chính là một sức mạnh tinh thần, vừa là một xung lực vừa là một kháng thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời nó cũng là một tố chất cố kết cộng đồng người Việt, trên cơ sở tìm về một cội nguồn lịch sử và văn hóa chung, làm chín muồi ý thức quốc gia và tinh thần dân tộc Việt.
Trong khi những vương triều Lý – Trần – Hồ duy trì ở quốc gia Đại Việt phía bắc lãnh thổ Việt Nam ngày nay, thì ở phần đất phía nam, đã tồn tại vương quốc Champa với nền văn hóa gốc Nam Á và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Văn hóa Champa vừa là một thực thể độc lập, vừa có những mối giao lưu qua lại với Đại Việt.
Thế kỷ XIII, sau cuộc chiến tranh trăm năm với Chân Lạp (1113-1220),Champa khôi phục nền độc lập. Cuối thế kỷ đó, Champa đã liên minh với Đại Việt chống quân Nguyên. Quan hệ Việt- Chăm trở nên tốt đẹp với cuộc viếng thăm Champa của vua Trần Nhân Tông và cuộc hôn nhân Huyền Trân- Chế Mân. Nhưng sau đó, quan hệ giữa 2 nước đã trở nên xấu đi, dẫn đến những cuộc xung đột Việt – Chăm cuối thế kỷ XIV. Cho đến năm 1471, Lê Thánh Tông đã sáp nhập phần lớn lãnh thổ Champa vào Đại Việt.
Trong lịch sử, đã có nhiều quan hệ giao lưu hai chiều và hòa nhập văn hóa Chăm – Việt. Một số yếu tố văn hóa Chăm đã có mặt trong văn hóa Đại Việt như loại vải lĩnh (dệt ở Trích Sài, do một cung nữ Chăm truyền nghề). Các nhạc cụ trống cơm, đàn Bà lỗ, các điệu múa Tây thiên, các điệu hò Huế, các mô típ điêu khắc Garuda (chim thần), makara (thủy quái), kinnari (người đánh trống), apsara (tiên nữ) được tìm thấy ở chùa Phật Tích. Các truyện cổ tích Việt như Dạ thoa vương, Sọ dừa có nguồn gốc Chăm. Các thánh mẫu Bà chúa Ngọc (Hòn chén, Huê) là những hình ảnh dung hợp của Thiên Yana (Chăm) và Bà chúa Liễu (Việt).
Mặt khác, văn hóa Đại Việt cũng đã ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Chăm, sau đó, tích hợp nó vào dòng chảy của cộng đồng văn hóa dân tộc Việt.
trước việc xâm lược của Pháp triều Nguyễn đã cư xử như thế nào
Câu trả lời của bạn
trình bày lịch sử rôma?
bằng những sự kiện lịch sử đã học,em hãy chứng minh sự hèn nhát nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn (1858-1884)
Câu trả lời của bạn
Giai đoạn | Sự kiện chính | Thái độ của triều đình | Thái độ của nhân dân |
1858 - 1862 | Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kì. | Không kiên quyết. Bỏ lỡ cơ hội chống Pháp. Kí hiệp ước Nhâm Tuất 1862 ⇒ nhu nhược, ươn hèn vì quyền lợi của dân tộc. | Nhân dân 3 tỉnh Đông Nam Kì kiên quyết chống Pháp ngay khi chúng nổ súng. |
1863 - 1867 | Pháp chiếm Tây Nam kì | Triều đình lúng túng và giao 3 tỉnh Tây Nam Kì cho Pháp.⇒ Tạo cơ hội cho Pháp chiếm luôn 3 tỉnh Tây Nam Kì còn lại. | Nhân dân 6 tỉnh Nam kì kháng chiến mạnh mẽ phát triển khắp nơi. |
1868 - 1874 | Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 1. | Không kiên quyết chống giặc, cầm chừng. Kí hiệp ước Giáp Tuất 1874 | Kiên quyết chống giặc. |
1875 - 1884 | Đánh chiếm Bắc kì lần 2. | Triều đình kí hiệp ước Hac Mang và Pa ta nốt. ⇒ Hoàn thành chiến tranh xâm lược | Nhân dân Bắc Kì đứng lên chống Pháp. |
1884 - đầu thế kỉ XX | Đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân | 1885-1888, Triều đình chỉ huychống Pháp ra chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân chống Pháp. 1888- cuối thế kỉ XIX, Triều đình không chỉ huy chống Pháp | Phong trào yêu nước của nhân dân, văn thân, sĩ phu vẫn tiếp tụ phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Bãi Sậy,khởi nghĩa Hương Khê.3 |
Hèn nhát cái đầu ấy , làm vậy là vì Tự Đức qua đời chưa có vua khác lên ngôi và cũng vì độc lập
Đéo biết dùng từ thì đừng có ghi OK
1,nguyên nhân nào dẫn đến phong trào cần vương?
2,bảng so sánh phong trào cần vương vs phong trào nông dân yên thế (mục đích, lãnh đạo, quy mô, tính chất)và rútra nhận xét???
giúp mk vs nhá nhá nhá!!!
Câu trả lời của bạn
1. Nguyên nhân:
Sau 1884, Pháp xác lập ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.
- Được nhân dân cổ vũ phe chủ chiến mạnh tay hành động.
- Cuộc phản công của phái chủ chiến do Tôn Thât Thuyết đứng đầu ở kinh thanh huế (đêm 4 rạng sáng 5 tháng 7 năm 1885)
- Cuộc phản công của phái chủ chiến thấ bại Vua Hàm Nghi chạy lên Tân Sở ( quảng trị) tại dây chiến cần vương làn thứ 1 dc ban ra
- Ngày 20_9_1885 tại căn cứ Ấu Sơn ( HÀ Tĩnh ) chiếu chiến Cần Vương làn thứ 2 được ban ra
Từ đó bùng nổ manh mẽ trong nhân dân 1 phong trào khang chien chong phap mang tên cần Vương
Cần vương mang nghĩa "giúp vua". Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược.
2.
Trình bày nguyên nhân, diễn biến và kết quả trận Trân Châu cảng. Trận chiến đã tác động đến nước Mĩ và thế giới lúc này như thế nào?
Câu trả lời của bạn
Nguyên nhân của trận Trân Châu cảng:
- Mục tiêu chiến lược của Nhật Bản là Đông Nam Á. Với mục tiêu như vậy, Nhật sẽ phải đối đầu với 2 đối thủ chính là Mĩ và Liên Xô. Khi Đức tấn công Liên Xô, Nhật hướng tới đối đầu Mĩ, nhưng quan hệ Mĩ - Nhật ngày trở nên căng thẳng đến mức không thể giải quyết bằng đàm phán, mà phải dùng chiến tranh.
- Nhật hiểu rằng sức mạnh chủ yếu của Mĩ ở Châu Á - Thái Bình Dương là hạm đội Thái Bình Dương đóng tạ Trân Châu cảng. Do đó, muốn nhanh chóng đánh bại Mĩ thì phải bí mật, bất ngờ tiêu diệt hạm đội Mĩ ở Trân Châu cảng.
* Diễn biến - kết quả
- 5 giờ sáng ngày 7-12-1941, toàn bộ hạm đội đặc nhiệm Nhật đã được tập kết ở nơi cách Trân Châu cảng 200 hải lí, 5 giờ 30 phút hai máy bay trinh sát cất cánh... Ngay sau đó, 183 máy bay được lệnh cất cánh từ các tàu sân bay, mở đầu đợt 1 của cuộc tấn công, tiếp theo là 170 máy bay khác cho đợt tấn công thứ 2, đồng thời 29 tàu ngầm Nhật cũng dến gần Trân Châu cảng để chặn tàu Mĩ nào còn "sống sót"...
- Trong khi đó, Mĩ không biết một chút gì đang và sẽ xảy ra. Trận chiến đấu diễn ra từ 7 giờ 55 phút đến 9 giờ 45 phút sáng ngày 7-12-1941, qua hai đợt tấn công vào bến cảng và sân bay Trân Châu cảng, hải quân và không quân Nhật đã đánh chìm và làm thiệt hại nặng 18 tàu chiến lớn của Mĩ, trong đó có 8 thiết giáp hạm, phá hủy 232 máy bay chiến đấu, có đến 3581 người bị thiệt mạng.
* Tác động:
- Vụ Trân Châu cảng đã thúc đẩy việc Mĩ tuyên chiến với Nhật, chính thức chấm dứt chính sách biệt lập tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai.
- Ngày 1-1-1942, 26 nước tại Oa sing tơn kí Tuyên ngôn Liên hợp quốc quyết tâm chóng phát xít đến cùng và khối đồng minh chống phát xít hình thành.
Trình bày hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa của Chính sách kinh tế mới? Nhận xét gì về chính sách kinh tế mới? Đảng cộng sản Việt Nam có vận dụng chính sách này trong thời kì Đổi mới không?
Câu trả lời của bạn
Chính sách kinh tế mới
- Hoàn cảnh:
+ Năm 1921, nước Nga Xô viết bước vào thời kì hòa bình xây dựng đất nước trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Nền kinh tế quốc dân bị tàn phá nghiêm trọng, tình hình chính trị không ổn định, các lực lượng phản cách mạng điên cuồng chống phá, gây bạo loạn ở nhiều nơi.
+ Nước Nga rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, chính trị, đe dọa sự tồn tại của chính quyền Xô viết.
+ Nhằm khắc phục khủng hoảng, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển kinh tế. Đại hội lần thứ X Đảng Bôn sê vích vào tháng 3-1921 quyết định chuyển Chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới.
- Nội dung:
+ Trong nông nghiệp: Nhà nước thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thế lương thực cố định. Thuế lương thực nộp bằng hiện vật. Sau khi nộp đủ thuế đã quy định trước mùa gieo hạt, nông dân được toàn quyền sử dụng số dư thừa và tự do bán ra thị trường.
+ Trong công nghiệp: Nhà nước tập trung khôi phục công nghiệp nặng, cho phép tư nhân được thuê hoặc xây dựng những xí nghiệp loại nhỏ, dưới sự kiểm soát của nhà nước, khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, kinh doanh ở Nga. Nhà nước nắm các ngành kinh tế chủ chốt, giao thông vận tải, ngân hàng, ngoại thương. Nhà nước chấn chỉnh việc tổ chức, quản lí sản xuất công nghiệp, phần lớn các xí nghiệp chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế, cải tiến chế độ tiền lương nhằm nâng cao năng suất lao động.
+ Trong lĩnh vực thương nghiệp và tiền tệ: Tư nhân được tư do buôn bán trao đổi. Nhà nước mở lại các chợ, khôi phục, đẩy mạnh mối liên hệ kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Năm 1924, nhà nước phát hành đồng rúp thay cho các loại tiền cũ.
- ý nghĩa
+ Đưa nước Nga thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, chính trị
+ Thể hiện sự chuyển đổi kịp thời, đầy sáng tạo từ nền kinh tế nhà nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế nhiều thành phần và tự do buôn bán.
+ Chính sách kinh tế mới còn mang ý nghĩa quốc tế sâu sắc đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước.
- Nhận xét
+ Có thể xem Chính sách kinh tế mới là một bước lùi nhưng là một bước lùi cần thiết để Liên Xô vượt qua khó khăn thử thách, tạo đà vững bước vào thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bôn sê vích và Lê nin.
- Đảng ta đã vận dụng kinh nghiệm này vào điều kiện cụ thể của Việt nam trong thời kì đổi mới là phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần có sự định hướng của nhà nước.
bối cảnh, những thách thức đặt ra cho triều nguyễn vào giữa thế kỷ XIX ? tại sao nhà nguyễn vẫn thi hành chính sách bảo thủ
Câu trả lời của bạn
Thách thức của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX
Đến đầu thế kỷ XIX, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập có chủ
quyền, đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện trên tất cả các mặt từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa và giáo dục. Đặc biệt, trong lịch sử, dân tộc Việt
Nam đã đánh bại nhiều kẻ thù hùng mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc như
Tống, Nguyên, Minh, Thanh,…
Tuy nhiên, sang đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam vốn đã suy
yếu từ trước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng dưới triều Nguyễn trên tất
cả các lĩnh vực. Trong khi đó, các nước tư bản Âu-Mỹ bắt đầu đẩy mạnh xâm
lược thuộc địa để phục vụ cho nhu cầu phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư
bản. Các nước Đông Nam Á đều bị biến thành thuộc địa của các nước thực dân
phương Tây (trừ Thái Lan). Điều đó đặt ra cho giai cấp phong kiến Việt Nam
giai đoạn này phải lựa chọn con đường phát triển và cách thức phù hợp để đưa
đất nước thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của các nước thực dân.
1. Bối cảnh thế giới và khu vực
Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, châu Âu và Bắc Mỹ đã tiến hành thành công
các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng công nghiệp không ngừng được triển
1
khai, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, khoa học kĩ thuật phát
triển mạnh đạt đến trình độ tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ. Đồng thời với sự
lớn mạnh đó, các nước tư bản Âu-Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược để chiếm
đoạt thị trường và thuộc địa. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư
bản làm xuất hiện sự thèm muốn ngày càng tăng, đưa tới cuộc chinh phục thuộc
địa một cách dã man, đi đến tước đoạt nền độc lập của các quốc gia, châu Á
cũng không phải là một ngoại lệ. Điều này Mác và Ăng ghen đã từng cảnh báo
trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp tư sản đã bắt nông
thôn phải phục tùng thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phụ
thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phụ thuộc vào phương Tây”.
Trong bước khởi đầu gặp gỡ Đông-Tây, theo sau các nhà hàng hải đi khám phá
con đường sang phương Đông là thương nhân và giáo sĩ. Họ mang theo hàng
hóa và kinh thánh du nhập vào đây văn hóa vật chất và tinh thần của người châu
Âu. Rồi đến lượt những đội quân viễn chinh và các nhà cai trị. Tinh túy của
nền văn minh phương Tây qua lớp người này bị khúc xạ đến mức sai lệch thể
hiện qua những cuộc cướp phá man rợ đầy tội ác và những cuộc chiến tranh
xâm lược tàn bạo. Trong sự hào nhoáng của văn minh, thực dân phương Tây tự
coi mình có sứ mệnh “khai hóa văn minh” mà không dám thừa nhận mục đích
lợi nhuận của chúng. Chính vì thế, bên cạnh việc du nhập một nền sản xuất mới,
nó đã gây ra một hậu quả không thể chối bỏ là kéo lùi đời sống vật chất và tinh
thần của người dân thuộc địa tới mức thấp nhất. Quá trình bành trướng thế lực
của các nước thực dân ở châu Á với quy mô mạnh mẽ toàn châu lục là vào giữa
thế kỉ XIX, đặc biệt từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện ở Trung Quốc.
Trong khi đó, ở châu Á và nhiều nơi khác trên thế giới vẫn nằm dưới ách
thống trị của chế độ phong kiến và ở trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Đặc biệt,
các quốc gia phong kiến Đông Nam Á sau một thời gian phát triển ở các thế kỷ
2
trước, đến thời gian này đều lâm vào khủng hoảng trầm trọng, chính quyền
phong kiến Trung ương suy yếu, khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Điều
đó làm cho các nước Đông Nam Á trở thành mục tiêu nhòm ngó, xâm lược của
các nước thực dân.
Philippin đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha vào năm 1572. Năm 1603,
Hà Lan bắt đầu tấn công Indonesia, đến năm 1814 về cơ bản đã hoàn thành việc
xâm lược quốc gia này. Bán đảo Mã Lai, Singapo và Brunay đều trở thành
thuộc địa và các vùng đất bảo hộ của Anh vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX. Từ năm 1824 đến năm 1885, Anh tấn công và hoàn thành việc xâm lược
Miến Điện (Myanma ngày nay). Các quốc gia lớn ở châu Á như Ấn Độ từ năm
1849 bị Anh độc chiếm, Trung Quốc từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện (18401842) bị nhiều nước đế quốc sâu xé, trở thành nửa thuộc địa, nửa phong kiến.
Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia châu Á đều trở thành nạn nhân
của chủ nghĩa thực dân. Vẫn có những nước giữ được nền độc lập của mình; đó
là Xiêm với chính sách ngoại giao khéo léo. Và đặc biệt Nhật Bản không chỉ
giữ vững được nền độc lập dân tộc mà còn phát triển, vươn lên trở thành một
nước tư bản đế quốc.
Cuộc duy tân ở Nhật Bản diễn ra dưới sự lãnh đạo của Thiên Hoàng Minh
Trị trên tất cả các lĩnh vực, đáng chú ý là những cải cách trên lĩnh vực hành
chính và quân sự. Về hành chính là sự ra đời của một bản Hiến pháp mới
(11/02/1889) được xây dựng trên cơ sở tham khảo Hiến pháp của Đức và Mỹ.
Thực chất đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế khoác áo đại nghị, thích
hợp với điều kiện lịch sử của Nhật bản lúc bấy giờ. Đó là thời điểm Mạc Phủ
mới bị xóa bỏ, sự uy hiếp của thế lực cũ vẫn còn tồn tại. Việc cải tạo Nhật Bản
phong kiến trở thành một nước tư bản là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, do
3
vậy cần phải có một chính quyền đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ. Về quân sự
là học tập và xây dựng quân đội theo mẫu hình phương Tây, trong đó Lục quân
theo mô hình Phổ, còn Hải quân theo mô hình Anh. Cuộc duy tân nhằm xóa bỏ
các hiệp ước bất bình đẳng mà Nhật Bản đã phải ký với các nước tư bản trước
đó. Có thể thấy cuộc Minh Trị Duy Tân là một cuộc cách mạng bởi vì nó đã
biến đổi Nhật Bản từ một nước phong kiến có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
thành một nước tư bản có nền công nghiệp hiện đại, có lực lượng quân sự hùng
mạnh, văn hóa giáo dục tiên tiến vv… nhờ đó Nhật Bản đã rút ngắn được
khoảng cách phát triển với các quốc gia Âu – Mỹ trong một thời gian kỉ lục.
Cải cách ở Xiêm diễn ra dưới triều đại Chakri, đặc biệt là dưới triều vua
Rama IV (Mông-cút) và Rama V (Chulalongcon). Cuộc cải cách cũng được
diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tê – xã hội, quân sự, tôn
giáo – giáo dục, đặc biệt là việc thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo nhà
nước và việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp mới theo hình mẫu các nước
châu Âu năm 1908. Để giữ được nền độc lập tương đối của mình, Xiêm đã khéo
léo mở cửa đất nước, đặt quan hệ với tất cả các nước đế quốc, đặc biệt là với
Anh và Pháp, dùng sức mạnh của các nước đế quốc đó để kiềm chế lẫn nhau.
Hơn nữa, Xiêm còn ký các Hiệp ước nhượng cho Anh và Pháp những vùng đất
ngoài lãnh thổ biên giới quốc gia của Xiêm để giữ được độc lập và toàn vẹn
lãnh thổ. Tóm lại, cuộc cải cách do các vua Rama IV và Rama V tiến hành đã
tạo cho nước Xiêm một bộ mặt mới theo mô hình phương Tây, mở đầu quá
trình định dạng mô hình chủ nghĩa tư bản ở Xiêm, quá trình đó về cơ bản được
hoàn tất vào thập niên 60 của thế kỉ XX.
Trong số các nước tư bản phương Tây có mặt ở Việt Nam thế kỷ XIX thì
Pháp là nước có tham vọng nhất và mong muốn có được thuộc địa ở vùng Viễn
Đông. Bởi sau khi để mất Canada và thất bại trong cuộc đua chinh phục Ấn Độ
4
vào tay Anh, sức mạnh quốc tế của Pháp bị suy giảm. Đặc biệt, việc Anh ngày
càng mở rộng thuộc địa ở vùng này sau khi có được Mã Lai, Brunay, Singapo,
đặc biệt là Miến Điện buộc Pháp phải có được thuộc địa ở Đông Nam Á, đặc
biệt là Việt Nam. Hơn nữa, lúc này, các nước đế quốc đang tập trung xâu xé
“cái bánh ngọt” – Trung Quốc nên Pháp muốn dùng Việt Nam làm bàn đạp để
tấn công vào Trung Quốc từ phía Nam. Vì vậy mà Pháp cực kỳ quyết tâm trong
việc xâm lược Việt Nam để thực hiện các âm mưu của mình. Điều này cũng là
một thách thức to lớn của lịch sử Việt Nam bởi kẻ thù của dân tộc trong thời kỳ
này hoàn toàn khác so với các kẻ thù trước đây trong lịch sử dân tộc. Nếu như
những kẻ thù trước đây là Tống, Nguyên, Minh, Thanh là những kẻ thù hùng
mạnh nhưng chúng vẫn cùng là chế độ phong kiến như các triều đại của Việt
Nam thì đến giữa thế kỷ XIX, kẻ thù của dân tộc ở một trình độ kinh tế - xã hội
phát triển cao hơn hẳn – tư bản chủ nghĩa nên chúng có sức mạnh kinh tế - quân
sự vượt trội so với chế độ phong kiến lạc hậu và của nhà Nguyễn.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tác động của bối cảnh thế giới và khu vực
đó. Là một quốc gia có vị trí đặc biệt tại Đông Nam Á, có nhiều tài nguyên
khoáng sản nên Việt Nam sớm trở thành đối tượng nhòm ngó của các nước đế
quốc, đặc biệt là Pháp. Nhưng việc có trở thành thuộc địa hay không còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố.
2. Tình hình trong nước
Sau khi lật đổ vương triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua,
chọn Phú Xuân làm kinh đô, thiết lập sự thống trị của họ Nguyễn trên phạm vi
cả nước. Đến trước năm 1858, nhà Nguyễn đã trải qua bốn đời vua là Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Nhà nước quân chủ tập quyền được củng cố.
5
Vua Nguyễn trực tiếp điều hành mọi việc hệ trọng trong nước, từ trung ương
đến địa phương.
Nhà nước thi hành chính sách đối ngoại tiêu cực, thần phục nhà Thanh
(Trung Quốc) trong khi lại bắt các nước Lào và Cao Miên thần phục mình. Đặc
biệt, nhà Nguyễn thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, không giao lưu, buôn
bán với phương Tây. Đồng thời, thi hành chính sách cấm và tàn sát đạo Thiên
chúa. Điều đó càng làm tăng lòng bất mãn trong quần chúng, chia rẽ khối đoàn
kết dân tộc và tạo điều kiện cho thực dân Pháp có cớ xâm lược nước ta.
Về kinh tế, nhà nước cho thực hiện phép quân điền, đo đạc lại ruộng đất
nhưng không có kết quả. Vì nạn chấp chiếm ruộng đất của địa chủ diễn ra phổ
biến, ruộng đất công còn lại không đáng kể. Thêm vào đó là nạn ruộng đất bỏ
hoang nên dù có khai khẩn thêm được hai vùng lớn là Tiền Hải (Thái Bình) và
Kim Sơn (Ninh Bình) cũng không làm cho diện tích ruộng đất được cải thiện.
Ngành khai thác mỏ được mở rộng. Cả nước có hàng trăm mỏ được khai thác
(các mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm, chì, diêm tiêu...). Nhưng cách khai thác còn lạc
hậu, các mỏ hoạt động thất thường và sa sút dần. Mầm mống kinh tế tư bản chủ
nghĩa không có điều kiện phát triển, tàn lụi dần.
Về xã hội, do nạn chấp chiếm ruộng đất của địa chủ và tình trạng hạn hán,
lụt lội liên tiếp xảy ra, nhân dân phải đói khổ bỏ làng xóm đi phiêu tán khắp
nơi. Đó là mầm mống để họ tập hợp lại và bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của
nông dân. Chỉ trong nửa đầu thế kỷ XIX, đã có gần 400 cuộc nổi dậy khởi
nghĩa của nông dân chống lại triều Nguyễn. Chưa có giai đoạn nào mà chỉ trong
một thời gian ngắn như vậy lại nổ ra nhiều cuộc khới nghĩa đến như thế. Đó là
một đặc điểm của phong trào nông dân thế kỷ XIX. Việc đàn áp các cuộc khởi
nghĩa nông dân và can thiệp quân sự vào Cao Miên và Lào đã làm cho tài
6
chính thiếu hụt, ngân sách trống rỗng, tiềm lực quân sự - quốc phòng của đất
nước giảm sút, suy yếu và bộc lộ rõ những hạn chế.
Như vậy, những tác động của bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và của
chính nội tại đất nước đã đặt ra thách thức cho giai cấp phong kiến Việt Nam
(phong kiến nhà Nguyễn) là có tìm ra được con đường phát triển đúng đắn
và biện pháp phù hợp để đưa đất nước phát triển, thoát khỏi nguy cơ
thuộc địa hay không, và khi đã tìm ra được con đường đúng đắn rồi thì có
thực hiện được hay không?
II.
Giải quyết thách thức của nhà Nguyễn
Dưới sự cai trị của nhà Nguyễn và nạn ngoại xâm của thực dân Pháp, nhân
dân điêu đứng, mùa màng thất bát, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Trước tình trạng
rối ren của xã hội lúc bấy giờ, xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, muốn
cho đất nước hùng mạnh có thể đương đầu với cuộc xâm lược ngày càng quyết
liệt của thực dân Pháp, một số quan lại, sỹ phu yêu nước đã đề xuất cải cách,
canh tân đất nước, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Trần
Đình Túc, Nguyễn Huy Tế,…
Về cơ bản, các quan lại sỹ phu đều có ý muốn cải cách nhằm chấn hưng đất
nước. Năm 1868, Trần Đinh Túc, Nguyễn Huy Tế xin mở cửa biển Trà Lý
(Nam Định). Đinh Văn Điền xin đẩy mạnh việc khai khẩn ruộng hoang và khai
mỏ, phát triển thương nghiệp, quốc phòng. Đáng chú ý nhất là Nguyễn Trường
Tộ. Từ năm 1863 đến năm 1871, ông đã gửi lên vua Tự Đức 60 bản điều trần
xin canh tân đất nước. Đáng chú ý nhất là “Cấp tế bát điều” với nội dung chủ
yếu là chấn chỉnh bộ máy nhà nước, điều chỉnh một số hoạt động ngoại thương,
công nghiệp và quốc phong của đất nước. Vào các năm 1877 và 1882, Nguyễn
Lộ Trạch lần lượt dâng lên nhà vua hai bản “Thời vụ sách thượng” và “Thời vụ
7
sách hạ”, thực hiện tích lũy lương thực, học kỹ thuật phương Tây, ngoại giao
rộng rãi,…
Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng những đề nghị cải cách của
các quan lại, sỹ phu yêu nước đã phản ánh lòng trung quân ái quốc, yêu nước
thương dân của một bộ phận quan lại sỹ phu, đồng thời đã đáp ứng, giải quyết
một phần yêu cầu của lịch sử dân tộc vào thời điểm đó như Giáo sư Trần Văn
Giàu đã nhận xét về những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ “Những đề
nghị của Nguyễn Trường Tộ rõ ràng là xuất phát từ tư tưởng yêu nước, từ nhu
cầu cứu quốc cấp bách, từ thực tế Việt Nam. Trong đó có nhiều điều hay, thiết
thực. Làm được và nếu làm thì rất có lợi”.
Mặc dù mới chỉ là những đề xuất đầu tiên và chưa hệ thống nhưng với
những đề nghị cải cách của các quan lại, sỹ phu yêu nước thì thách thức của
lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX đã có phương cách để giải quyết. Và vấn đề đặt ra
bây giờ là có thể thực hiện được những cải cách đó hay không, có đưa Việt
Nam thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây
giống như Nhật Bản và Xiêm hay không là tùy thuộc vào thái độ và khả năng
của triều đình nhà Nguyễn.
Trước những đề nghị canh tân, triều đình Huế không hoàn toàn quay
lưng lại, thực tế vua Tự Đức cùng với triều thần cũng đã đọc kĩ và bàn luận
về các đề án cải cách, và cũng đã thực thi một số chính sách cải cách trên
một số lĩnh vực cụ thể:
Về khai mỏ: từ năm 1864, triều đình cho đẩy mạnh khai thác các mỏ sắt ở
Thừa Thiên, Thái Nguyên, mỏ than ở Quảng Yên, Quảng Nam, mỏ bạc ở Cao
Bằng.
8
Về thuỷ lợi, từ năm 1858, triều đình cho đào các con sông và đắp đê ở Hà
Tĩnh, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên.
Về ngoại thương, triều đình lập Ti bình chuẩn để trông coi việc buôn bán,
cho phép người trong nước tự do đi mua bán với bên ngoài, mở một số chợ mới
dọc theo sông Cấm để thuận tiện cho việc buôn bán, miễn thuế nhập cảng để
thu hút thương nhân phương Tây vào buôn bán.
Về quân sự, triều đình cho mở Cục Công Xảo để nấu đồng, đúc các loại
súng mới, bỏ tiền mua sắm thêm vài loại vú khí, tàu thuỷ mới, hoặc thêm một
vài chính sách ban thưởng kịp thời cho binh lính nhằm động viên tinh thần binh
sĩ.
Về giáo dục, từ tháng 11 năm 1878, triều đình chính thức quy định việc học
tiếng Pháp và các ngôn ngữ nước ngoài và mở một trường dạy tiếng Pháp ở Hải
Dương. Triều đình cũng bắt đầu chú trọng đến việc phổ biến các tri thức khoa
học phương Tây, và xét chọn các con em quan viên cho sang phương Tây học
tập.
Tuy nhiên, dù mang tư tưởng tiến bộ và thậm chí một số cải cách có thể
thực hiện được nhưng về cơ bản những đề nghị cải cách trên vẫn không
được vua quan nhà Nguyễn chấp nhận. Những đề xướng cải cách đó đơn
giản chỉ là một đống giấy tờ được xếp vào kho lưu trữ. Chính vua Tự Đức khi
đọc bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã ngỏ ý mỉa mai: “Tộ ta quá coi
trọng vào những gì mình nghĩ, chính sách của ta cũng đã đủ để cai trị”. Điều đó
cho thấy dù một số đề nghị cải cách được thực hiện nhưng không hề có những
chương trình cải cách trên quy mô lớn, mà chủ yếu là những việc làm mang tính
chất vụn vặt, bổ cứu vụng về để đối phó với thời cuộc nên không triệt để.
9
Thách thức của lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ XIX đặt ra một cách cấp
thiết và đã xuất hiện con đường, biện pháp để có thể giải quyết thách thức ấy.
Tuy nhiên nhà Nguyễn đã không giải quyết được thách thức ấy. Thất bại đó của
nhà Nguyễn đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với lịch sử dân tộc. Đất nước
tiếp tục chìm sâu vào khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, những yêu cầu cấp
thiết của dân tộc và nhân dân không được giải quyết. Do đó không tạo ra được
nội lực để phát triển đất nước. Mâu thuẫn giai cấp tuy có tạm lắng nhưng luôn
tiềm ẩn nguy cơ làm chia rẽ, mất đoàn kết dân tộc trong cuộc đối đầu với thực
dân Pháp xâm lược. Đất nước không đủ khả năng để đương đầu với sự xâm
lược của thực dân Pháp. Hơn nữa, nhà Nguyễn với tư tưởng thủ hòa ngay từ
đầu, không quyết tâm kháng chiến chống Pháp, không có một đường lối kháng
chiến đúng đắn, không đưa ra được một lời kêu gọi toàn dân kháng chiến đã
làm cho việc nước ta rơi vào thay thực dân Pháp từ không tất yếu trở thành tất
yếu. Việc đất nước mất độc lập có nguồn gốc từ việc nhà Nguyễn không thể
thực hiện được những đề nghị cải cách canh tân đất nước.
Việc những đề nghị cải cách không được thực hiện do những nguyên nhân
cơ bản sau:
- Sự nhu nhược, bảo thủ của triều đình phong kiến đã lỗi thời.
- Nguồn nhân lực, tài chính cạn kiệt do chiến tranh.
- Chế độ phong kiến và những hệ tư tưởng của nó đã tồn tại hàng ngàn năm ở
Việt Nam không dễ gì thay đổi.
- Các bản điều trần còn bộc lộ ít nhiều hạn chế, chưa suy xét đến tình hình
nước ta lúc bấy giờ, thiếu tính khả thi, mang tính chủ quan cá nhân, xa rời
mong muốn của nhân dân.
10
- Tình hình xã hội rối rên, không ổn định, giữa triều đình và nhân dân không
có tiếng nói chung, tình đoàn kết dân tộc bị rạn nứt.
- Sự ràng buộc và kiểm soát chặt chẽ của thực dân Pháp.
- Triều đình Huế tiếp nhận và thực hiện các trào lưu cải cách trong hoàn cảnh
miền Nam bị chiếm đóng, thực dân Pháp lại mở rộng xâm lược ra cả nước.
Các hiệp ước đã trói buộc nhà Nguyễn trong quan hệ một chiều với Pháp
khiến cho việc triển khai cải cách không thành do bị người Pháp cản trở.
Như vậy, trước những thách thức của dân tộc được đặ ra, đã xuất hiện
những con đường và biện pháp để giải quyết thách thức đó. Tuy nhiên do
nhiều lý do khác nhau, đặc biệt là sự bảo thủ, trì trệ của nhà Nguyễn đã
khiến cho những thách thức đó không được giải quyết. Thông qua các Hiệp
ước bất bình đẳng, đất nước ta dần dần trở thành một nước thuộc địa của
thực dân Pháp.
Mặc dù những kiến nghị trên không được thực hiện hoặc chỉ được
thực hiện một phần nhỏ song chúng đã khẳng định được sự thay đổi lớn
trong hệ tư tưởng của các nhà Nho thời bấy giờ, tấn công vào hệ tư tưởng
phong kiến lỗi thời và đặc biệt là tạo tiền đề cho phong trào duy tân sau này.
III.
Một số bài học rút ra từ sự thành bại của các cuộc cải cách ở châu Á
- Chủ động mở cửa cải cách sẽ góp phần hóa giải nguy cơ mất độc lập và
phát triển đi lên nếu không sẽ tụt hậu và rơi vào số phận bi thảm.
Từ giữa thế kỉ XIX, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã trở thành xu thế
của thời đại, và các quốc gia ngoài tư bản đều có thể có cơ hội phát triển đi lên
cùng thời đại nếu hội nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản không chỉ có mang đến những cơ hội thuận chiều mà còn đặt ra những
11
thách thức về độc lập chủ quyền đối với các quốc gia, vậy làm thế nào để vừa
có thể bảo vệ được độc lập chủ quyền quốc gia vừa có thể đưa đất nước phát
triển đi lên.
Qua thực tiễn các cuộc cải cách, có thể nhận thấy rằng Nhật Bản và Xiêm đã
chủ động mở cửa cải cách thành công nên đã góp phần bảo vệ được chủ quyền
độc lập của quốc gia và đưa đất nước tiến vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa tuy ở
những mức độ khác nhau. Như vậy ở vào thời điểm giao thời của lịch sử của
các quốc gia châu Á, chủ động mở cửa cải cách chính là một giải pháp hội nhập
tích cực nhằm tận dụng những cơ hội thuận lợi tự cường đất nước góp phần vào
việc hóa giải nguy cơ mất độc lập chủ quyền. Tuy nhiên để chủ động mở cửa
cải cách tiếp thu cái mới từ bên ngoài thì cần phải có những điều kiện tiếp nhận
từ bên trong, trên cơ sở những nhận thức thức thời khôn ngoan và tỉnh táo của
chính quyền đương thời. Trong trường hợp này, chính quyền Xiêm và Nhật Bản
đã tỏ ra thức thời hơn hẳn Việt Nam hay Trung Quốc, họ đã chủ động mở cửa
với các nước phương Tây ngay từ đầu thế kỉ XVI do đó đã tạo ra được những
tiền đề vật chất và xã hội nhất định để dễ dàng tiếp nhận và cải cách mạnh mẽ
sau này. Trái lại, do bị tư tưởng Nho giáo chi phối sâu sắc nên chính quyền
phong kiến Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản đã đóng cửa tuyệt giao với bên
ngoài, không những thế lại coi nhẹ kinh tế công - thương nghiệp đề cao kinh tế
nông nghiệp, từ đó có nhiều chính sách cực đoan làm thui chột những mầm
mống kinh tế mới khiến nó không thể phát triển lên được để có thể hình thành
một cơ sở vật chất xã hội khả dĩ có thể hậu thuẫn cho các chính sách cải cách.
Ngày nay các quốc gia châu Á cũng đang đối mặt với xu thế toàn cầu hoá,
với những cơ hội to lớn để phát triển, một sự lựa chọn năng động thuận chiều
với sự phát triển như triều dâng sóng cuộn của thời đại sẽ góp phần đưa đất
nước hội nhập vào dòng chảy văn minh của nhân loại, bỏ lỡ cơ hội sẽ tụt hậu.
12
Nhưng những thách thức về chủ quyền an ninh cũng đặt ra một cách gay gắt với
các nước, chính vì thế những bài học kinh nghiệm hội nhập nửa sau thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX chắc hẳn còn có giá trị thời sự nhất định.
- Muốn cải cách thành công, phái cải cách phải nắm chắc quyền lực trong
tay, bởi vì cải cách được thực hiện từ trên xuống thông qua việc chính
quyền ban bố các chính sách, biện pháp.
Có một chính quyền mạnh trong tay xem như đã có người bảo trợ cho các kế
hoạch Duy tân, nếu không mọi chính sách cải cách sẽ không thể thực hiện được.
Ở Nhật Bản và Thái Lan phái Duy tân nhờ nắm chắc quyền lực trong tay cho
nên tất cả các chính sách biện pháp ban ra đều được thực hiện triệt để. Nói một
cách khác là bộ phận thức thời của chính quyền phong kiến đương thời của các
nước này lúc bấy giờ đã đứng ra lãnh đạo sự nghiệp cải cách. Nhưng một thực
tế cho thấy là các chính quyền phong kiến ở phương Đông thường bảo thủ khó
chấp nhận đổi mới, vậy trong trường hợp nào thì nó có thể thừa nhận những dự
án cải cách và đứng về phe Duy tân để tiến hành cải cách. Trước hết phải cần
có những con người vĩ đại như vua Xiêm hay vua Minh Trị, với nhận thức thức
thời cấp tiến, nhận thức được yêu cầu cải cách đất nước phù hợp với xu thế của
thời đại. Nhưng một mình các nhà vua liệu có thể làm được gì. Vấn đề là xung
quanh nhà vua cần có một bộ phận những quý tộc tư sản hoá và một lực lượng
xã hội cấp tiến có tư tưởng tiến bộ ủng hộ nhiệt thành nhà vua tạo thành một lực
lượng áp đảo đi ngược lại yêu cầu đổi mới khiến cho việc cải cách trở thành xu
thế không thể đảo ngược.
Tất nhiên không phải trong trường hợp nào phái Duy tân và lực lượng phong
kiến tiến bộ cũng nắm được quyền lực trọn vẹn ngay từ đầu, mà còn trải qua
cuộc đấu tranh quyết liệt như trường hợp phái Duy tân ở Nhật Bản. Hơn nữa
13
một chính quyền đủ mạnh để thực thi cải cách không phải chỉ đơn thuần là
những người có nhận thức cấp tiến, mà đó còn là những người dày dạn kinh
nghiệm chính trị, hùng tài đại lược, phải nắm cả binh quyền, tài quyền, có chổ
dựa vật chất và xã hội to lớn. Chỉ với một chính quyền như vậy mới có khả
năng vạch ra những sách lược biện pháp loại bỏ phái Bảo thủ, tranh thủ các lực
lượng, giảm thiểu trở lực, tiến hành từng bước, dần dần thực hiện mục tiêu của
mình. Còn với một chính quyền hư danh do vua Quang Tự đứng đầu ở Trung
Quốc thì phái Duy tân chỉ có thể biểu diễn một màn bi kịch. Ở Việt Nam phái
Duy tân không đặt ra vấn đề nắm chính quyền, trong thực tế trước thì trông chờ
vào trriều Nguyễn, sau thì ảo vọng vào nước Pháp, nên cho dù là dự án hay một
phong trào rầm rộ có tiếng vang nhất định cuối cùng đều thất bại.
- Trong khi cải cách mở cửa cần nhận thức đầy đủ vấn đề sử dụng ngoại
lực trên cơ sở phát huy nội lực.
Mở cửa cải cách là học tập theo mô hình chủ nghĩa tư bản phương Tây nhằm
tranh thủ thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến, sự giúp đỡ của các nước phương
Tây, tức là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại để đẩy mạnh
quá trình cận đại hoá. Trong quá trình đó tất nhiên cần phải mời các chuyên gia
cố vấn nước ngoài đến để giúp đỡ, phải vay mượn vốn của nước ngoài để phát
triển. Nói một cách khác từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống đang
chuyển dịch mạnh mẽ sang tư bản chủ nghĩa, các nước đang tiến hành cải cách
rất cần đến một nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài để phát triển. Tuy nhiên cần
phải nhận thức ngoại lực chỉ là một thứ đòn bẩy, một phương tiện chứ không
phải là một cứu cánh, trong khi sử dụng ngoại lực cần thúc đẩy phát triển nội
lực để tạo ra nguồn lực tại chỗ dần thay thế ngoại lực, nhằm tránh nguy cơ phụ
thuộc nặng nề vào các nước bên ngoài. Nhà nước cần phải có chính sách thích
hợp để mở rộng đường cho những mầm mống kinh tế tư sản dân tộc phát triển,
14
nhằm tạo ra một số cơ sở vật chất xã hội làm chỗ dựa cho quá trình cải cách.
Một nền kinh tế phát triển mạnh, là nhân tố căn bản nhất để xác lập nền độc lập
của một quốc gia về mọi phương diện.
- Cải cách đề hòa nhập vào xu thế tiến bộ của thời đại chứ không phải để
hòa tan.
Trong khi du nhập những tiến bộ khoa học kĩ thuật của phương Tây, đồng
thời các quốc gia châu Á cũng du nhập cả những giá trị văn hoá tư tưởng lối
sống của các nước phương Tây. Có thể thấy rằng đó là những giá trị hết sức
mới mẽ tiến bộ do đó nó có sức hấp dẫn rất lớn, nếu không nhận thức đầy đủ sẽ
dẫn đến việc du nhập ào ạt không có chọn lọc, bị phương Tây đánh mất bản sắc
văn hoá dân tộc. Cận đại hoá quốc gia, nhưng những đặc trưng văn hoá truyền
thống vẫn không bị biến mất đó là tiêu chí để đánh giá một cuộc cải cách thành
công. Muốn vậy cần phải triệt để phát huy những giá trị lịch sử văn hoá truyền
thống với xu thế của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công cuộc cận đại
hóa.
Tại sao thời kì chuyên chính Gia cô banh được xem là thời kì đỉnh cao của Cách mạng tư sản Pháp?
Câu trả lời của bạn
Thời kì chuyên chính Gia cô banh được xem là thời kì đỉnh cao của cách mạng tư sản Pháp, vì:
- Ngày 31-5-1793, quần chúng cách mạng Pari đòi bắt và xét xử những người Gi- rông-đanh phản bội Tổ Quốc.
- ngày 2-6-1793, hàng vạn công nhân, thợ thủ công bao vây trụ sở Quốc hội, nhiều đại biểu Gi-rông-đanh bị bắt.
- Chính quyền chuyển sang tay những người Gia cô banh đứng đầu là Rô-xe-xpie, Cách mạng Pháp chuyển sang giai đoạn cao nhất - giai đoạn chuyên chính dân chủ cách mạng.
- Chính phủ Gia cô banh thực hiện nhiều biện pháp kiên quyết để chống thù trong giặc ngoài, ổn định đời sống nhân dân.
- Đạo luật tháng 6-1793, quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ bán theo phương thức trả dần trong 10 năm.
Do đó, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng, các đặc quyền và phụ thu phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn.
- Tháng 6-1793, quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ bán theo phương thức trả dần trong 10 năm.
Do đó, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng, các đặc quyền và phụ thu phong kiến bị xóa bỏ hoàn toàn và vĩnh viễn.
- Tháng 6-1793, Hiến pháp mới được thông qua tuyên bố chế độ cộng hòa, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng cấ bị xóa bỏ.
- Ngày 23-8-1793, QUốc hội thông qua sắc lệnh tổng động viên trong toàn quốc để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống thù trong giặc ngài do đó đến đầu năm 1794 nước Pháp có 14 đạo quân được trang bị đầy đủ.
- Ban hành luật giá tối đa với lương thực, thưc phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân.
- Nhờ đó, phái Gia cô banh đã dập tắt được các cuộc nổi loạn trong nước và giành thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược khỏi biên giới, cách mạnh Pháp đạt đến đỉnh cao.
I. Nước pháp trước cách mạng.
1. Tình hình kinh tế, xã hội
a. Kinh tế:
- Cuối thế kỉ XVIII, Pháp vẫn là nước nông nghiệp.
+ Công cụ, kĩ thuật canh tác lạc hậu, năng suất thấp.
+ Lãnh chúa, giáo hội bóc lột nông dân nặng nề.
- Công thương nghiệp phát triển
+ Máy móc sử dụng ngày càng nhiều (dệt, khai mỏ, luyện kim)
+ Công nhân đông, sống tập trung
+ Buôn bán mở rộng với nhiều nước.
b.Xã hội:
- Xã hội chia thành 3 đẳng cấp.
+ Tăng lữ: Nắm đặc quyền
+ Quý tộc: Kinh tế, chính trị, giáo hội.
+ Đẳng cấp thứ ba: Gồm TS, nông dân, bình dân. Họ làm ra của cải, phải đóng mọi thứ thuế, không được hưởng quyền lợi chính trị.
- Mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, địa vị chính trị dẫn đến cuộc khủng hoảng xã hội sâu sắc. Nước Pháp đang ở đêm trước của cuộc CM.
2. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
- Trào lưu Triết học ánh sáng: Vôn-te, Mông-te-xki-ơ, Rut-xô.
- Nội dung phê phán những quan điểm lỗi thời, giáo lí lạc hậu, mở đường cho xã hội phát triển, dọn đường cho CM bùng nổ.
II. Tiến trình của cách mạng
1. Cách mạng bùng nổ, Nền Quân chủ lập hiến.
- 5/5/1789 Hội nghị 3 đẳng cấp
- Ngày 14/7/1789 quần chúng phá ngục Ba -xti, mở đầu CM Pháp.
- Sau 1789 phái lập hiến thuộc tầng lớp đại TS lên cầm quyền. Những việc làm phái lập hiến:
+ 8.1789 thông qua tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền.
+ Ban hành chính sách khuyến khích công thương nghiệp phát triển.
+1791 thông qua Hiến pháp
+ Tịch thu ruộng đất bán giá cao.
=> QCND nổi dậy chống chính quyền.
- Vua Pháp tìm cách chống đối cách mạng: xúi giục phản động trong nước liên kết với PK Áo-Phổi.
- Tháng 4/1792 chiến tranh giữa Pháp với liên minh PK Áo-Phổ
- Ngày 11/7/1792 quốc hội tuyên bố Tổ quốc lâm nguy, quần chúng đã nhất loạt tự vũ trang bảo vệ đất nước.
2. Tư sản công thương cầm quyền. Nền cộng hoà được thành lập.
- Ngày 10/8/1792 quần chúng Pa-ri khởi nghĩa, bắt vua và hoàng hậu, đưa phái Girôngđanh (TS công thương) lên nắm quyền.
- Ngày 21/9/ 1792 Quốc hội tuyên bố thành lập nền cộng hoà thứ nhất.
- 21/1/1793 xử tử nhà vua.
- Đầu năm 1793 nước Pháp đứng trước khó khăn mới:
+ Trong nước: Bọn phản động nổi dậy, đời sống nhân dân khó khăn.
+ Bên ngoài: Liên minh phong kiến châu Âu đe doạ cách mạng.
- Ngày 31/5/1793 quần chúng Pa ri nổi dậy lật đổ phái Ghi - rông - đanh, giành chính quyền về tay phái Gia - cô - banh (ngày 2/6).
3. Nền chuyên chính Giacôbanh - đỉnh cao của cách mạng:
- Những biện pháp của chính quyền Giacôbanh:
+ Ra sắc lệnh xoá bỏ hoàn toàn nghĩa vụ PK đối với nông dân
+ Giải quyết ruộng đất cho nông dân, tiền lương cho công nhân.
+ Thông qua hiến pháp mới, mở rộng tự do dân chủ.
+ Ban hành sắc lệnh "Tổng động viên toàn quốc".
+ Xoá nạn đầu cơ tích trữ…
=> Cách mạng đến đỉnh cao.
- Trong lúc cách mạng đang lên mâu thuẫn nội bộ đã làm cho phái Gia-cô-banh suy yếu. Cuộc đảo chính ngày 27/7/1794 đã đưa chính quyền vào tay bọn phản động, cách mạng Pháp thoái trào.
4. Thời kỳ thoái trào.
- Sau đảo chính, uỷ ban Đốc chính ra đời,
đã thủ tiêu mọi thành quả của cách mạng.
+ Hiến pháp mới được ban hành bảo vệ lợi ích TS mới.
+ Xoá bỏ luật giá tối đa
+ Thủ tiêu các quyền tự do dân chủ.
+ Khủng bố những người CM.
- Cuộc đảo chính (11/1799) lật đổ chế độ Đốc chính, đưa Na-pô-lê-ông lên nắm quyền, xây dựng chế độ độc tài.
- Sau nhiều năm chiến tranh, đế chế I của Na-pô-lê-ông bị suy yếu, thất bại (1815). Chế độ quân chủ ở Pháp được khôi phục.
III. Ý nghĩa lịch sử của cách mạng Pháp cuối thế kỉ XVIII.
- Là cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình:
+ Lật đổ chế độ phong kiến cùng với những tàn dư của nó.
+ Giải quyết được vấn đề dân chủ (ruộng đất cho nông dân, quyền lợi của công nhân).
+ Hình thành thị trường dân tộc thống nhất mở đường cho lực lượng TBCN ở Pháp phát triển.
- Mở ra thời thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới.
vì sao việt nam trong tình trạng khủng hoảng, suy yếu mọi mặt
Câu trả lời của bạn
Cuộc khủng hoảng tồi tệ bắt đầu từ năm 2008, làm chao đảo thế giới suốt nửa thập kỷ qua. Bối cảnh này, cộng với những vấn đề nội tại khiến kinh tế Việt Nam ngày càng khó khăn và chưa thể thoát khỏi đáy suy thoái:
1.Tăng trưởng kinh tế thụt lùi
Tóm tắt diễn biến của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới và rút ra vài trò của quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng này. Phong trào cách mạng Việt Nam học tập được gì từ cuộc cách mạng đó?
Câu trả lời của bạn
Bảng: Các sự kiện chính của phong trào Yêu nước đầu thế kỉ XX (đến 1918)
Niên đại | Sự kiện |
1905 -1909 | Phong trào Đông Du. |
1907 | Đông Kinh Nghĩa Thục. |
1908 | Cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở Trung kì. |
1916 | Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế. |
1917 | Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên. |
1911 | Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. |
Tóm tắt diễn biến của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới:
Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới là cuộc cách mạng ngày 18-3-1871.
- Ba giờ sáng ngày 18-3-1871, Chie cho quân đánh úp đồi Mông-mác, nơi tập trung đại bác cuarQuoocs dân quân, quần chúng nhân dân đã kịp thời đến hỗ trợ, binh lính ngả về phía nhân dân nên âm mưu của Chie thất bại, quân đội và Chie hoảng sợ chạy về phía Véc-xai.
- Ngày 18-3, theo lệnh của Ủy ban Trung ương, QUốc dân quân tiến vào trung tâm thủ đo, làm chủ cơ quan chính phủ. Chính quyền của giai cấp tư sản bị lật đổ. Ủy ban Trung ương Quốc dân quân thực hiện nhiệm vụ của một chính phủ lâm thời.
- Ngày 26-3 bầu cử Hội đồng công xã theo lối phổ thông đầu phiếu.
- ngày 28-3, công xã được thành lập và ra mắt quần chúng nhân dân Pa-ri.
* Vai trò của quần chúng nhân dân trong cuộc cách mạng:
Trong cuộc khởi nghĩa ngày 18-3, quần chúng nhân dân giữ vai trò là động lực cách mạng:
- Quần chúng lập cơ quan lãnh đạo - Ủy ban Trung ương Quốc dân quân.
- Phá tan âm mưu của chính phủ tư sản muốn tước vũ khí và giải tán Quốc dân quân.
- Tấn công vào trung tâm Pa-ri, chiếm các cơ quan chính phủ.
- Bầu cử Hội đồng công xã.
* Những điểm phong trào cách mạng Việt Nam học tập được từ cuộc cách mạng này:
- Từ bài học của Công xã Pari, CHủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra nhiều bài học quý báu cho cách mạng Việt Nam, như thành lập chính đảng của giai cấp công nhân, liên minh công nông.
- Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê-nin (1920, Người ra sức hoạt động, chuẩn bị và đến ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã đi đến thắng lợi với cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 có phải là một tất yếu lịch sử không? Tại sao?
Câu trả lời của bạn
Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là một sự kiện lịch sử đánh dấu sự ra đời của nước Nga Xô Viết. cách mạnh tháng 10 Nga nổ ra vào ngày 24 tháng 10 năm 1917, do LeNin và đảng Bolshevik lãnh đạo.
cuộc cách mạng tháng 10 Nga nổ ra là điều tất yếu, vì sau cách mạng tháng 2, nước Nga xuốt hiện hai chính quyền tồn tại song song đó là Chính phủ lâm thời của Giai Cấp Tư Sản và Xô Viết đại biểu Công-nông và binh lính. sau khi nắm được chính quyền chính phủ lâm thời đã không giải quyết những vấn đề đã hứa trước đó như vấn đề ruộng đất của nông dân, việc làm cho công nhân, tình trạng thiếu lương thực và nhất là quyết theo đuổi chiến tranh đế quốc đến cùng. trong hoàn cảnh đó Lenin và đảng Bolshevik đặt ra mục tiêu và chỉ rõ cần chấm dứt tình trạng 2 chính quyền song song bằng cách chuyển giao chính quyền về tay Xô Viết.sau tháng 10 làn sóng cách mạng lan tràn khắp nước
Nga, ngày 7 tháng 10, V.L.Lenin từ Phần Lan trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc hành động cách mạng. ngày 10 tháng 10 ban chấp hành trung ương họp quyết định khởi nghĩa vũ trang.tại hội nghị này ban chấp hành trung ương bầu ra bộ chính trị do Lenin đứng đầu dể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.chiều ngày 24 tháng 10 năm 1917 cuộc khởi nghĩa bắt đầu...(cuộc cách mạng tháng mười thành công vào ngày 7 háng 11 năm 1917 tức ngày 25 tháng 11 theo lịch Nga). chúc bạn vui vẻ và học tốt Lịch Sử nhé, có gì cứ hỏi. NHỚ TICK CHO MÌNH NHA
Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra là một tất yếu của lịch sử vì:
- Đầu thế kỉ XX, nga vẫn là nước quân chủ chuyên chế với những tàn tích phong kiến nặng nề.
- Năm 1914, nước Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất, trong chiến tranh Nga càng bộc lộ rõ sự lạc hậu yếu kém về kinh tế, chính trị, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
- Phong trào phản đối chiến tranh, đòi lật đổ chế độ Nga hoàng lan rộng khắp nơi.
Nước Nga trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn gay gắt nhất.
- Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai:
+ Tháng 2-1917, cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ với cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công nhân Pê-tơ-rô-gơ-rát.
+ Ngày 27-2-1917, phong trào tổng bãi công nhanh chóng lan rộng khắp thành phố. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn - sê - vích, phong trào chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang.
+ Phong trào có sự tham gia của lực lượng binh lính, quân khởi nghĩa chiếm toàn bộ các công sở quan trọng như nhà ga, bưu điện... Chế độ Nga hoàng bị lật đổ.
- Kết quả: hai chính quyền song song tồn tại.
Chính phủ tư sản lâm thời
Chính quyền Xô Viết đại diện công nhân, nông dân và binh lính/
Tình hình chính trị chua từng có diễn ra ở Nga, hai chính quyền song song tồn tại, hai chính quyền đại diện cho lợi ích các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại lâu dài.
- Cách mạng tháng Mười Nga 1917:
+ Tháng 4-1917, Lê nin đề ra luận cương tháng Tư xác định đường lối của Cách mạng Nga là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa (lật đổ chính quyền tư sản lâm thời).
+ Sau 8 tháng đấu tranh, từ đầu tranh hòa bình để tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhằm đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, Đảng Bô sê vích chuyển sang khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
+ Ngày 7-10-1917, Lê-nin về Pê-tơ-rô-grat trực tiếp chỉ huy cách mạng, thành lập hội Cận vệ đỏ và trung tâm quân sự cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước.
+ Đêm 24-10-1917, cuộc khởi nghĩa bùng nổ các đơn vị Cận vệ đỏ chiếm những vị trí then chốt của Thủ đô và bao vây Cung điện Mùa Đông.
+ Đêm 25-10-1917, quân khởi nghĩa tấn công Cung điện Mùa Đông, chính phủ tư sản lâm thời bị lật đổ.
Nêu những sự kiện chứng minh vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong Cách mạng tư sản Pháp 1789. Từ đó nhận xét mặt tích cực và hạn chế của Cách mạng tư sản Pháp.
Câu trả lời của bạn
*Chứng minh vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong Cách mạng tư sản Pháp 1789.
- Quần chúng nhân dân Pháp đã làm nên sự kiện quan trọng có ý nghĩa quyết định (lật đỏ chế độ quân chủ chuyên chế, lập nền Cộng hòa, xác lập nền chuyên chính dân chủ cách mạng, đánh thắng ngoại xâm).
- Quần chúng đã thúc đẩy Cách mạng tiến lên trong lúc hàng ngũ giai cấp tư sản phân hóa, các tâng lớp đại tư sản, tư sản công thương dần dần chuyển sang hàng ngũ phản Cách mạng.
+ Giai đoạn 1: quần chúng nhân dân chiến đánh ngục Ba-xti (14-7-1792): Cách mạng nổ ra và thắng lợi.
Hạn chế quyền hành của nhà vua.
Xoa bỏ đẳng cấp.
+ Giai cấp 2: Nhân dân khởi nghĩa lật đổ chính quyền đại tư sản (10-8-1792)
Xóa bỏ chế độ quân chủ.
Lập nền Cộng hòa đầu tiên của Pháp
Xử tử vua Lu-i XVI (21-1-1793)
+ Giai đoạn 3: Một lần nữa, quần chúng đứng lên khởi nghĩa, phái Gia-cô-banh lên cầm quyền (31-5, 2-6-1793).
- Quần chúng nhân dân đóng vai trò là động lực chủ yếu của cách mạng, xoay chuển tình thế cách mạng và đẩy cách mạng phát triển đi lên, đỉnh cao là thời Gia-cô-banh.
* Nhận xét mặt tích cực và hạn chế của Cách mạng tư sản Pháp:
- Mặt tích cực:
+ Cách mạng tư sản Pháp là điển hình cho thắng lợi của tư tưởng cách mạng, lí luận cách mạng tư sản... Các nhà tư tưởng Mông te xkiơ, Rút xô, Vôn te... (với trào lưu "triết học ánh sáng") đã để lại cho nhân loại những tư tưởng tiến bộ, có tác dụng thức tỉnh quần chúng, mở đường cho cách mạng tư sản bùng nổ, đồng thời đặt nền móng cho cơ cấu nhà nước tư bản chủ nghĩa.
+ Trong cách mạng tư sản Pháp, quần chúng đóng vai trò tích cực, chủ đạo.
+ Có những ống hiến lớn lao trong việc hình thành một quốc gia dân tộc thống nhất, một thị trường Tư bản chủ nghĩa thống nhất.
+ Cách mạng tư sản Pháp chú trọng đến con người, bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nêu lên công thức nổi tiến "Tự do - bình đẳng - bắc ái" mà đến nay nhân loại tiến bộ còn phấn đấu để thực hiện.
- Mặt hạn chế:
+ Coi nhẹ quyền lợi giai cấp công nhân, thừ nhận quyền tư hữu là bất khả xâm phạm, thừa nhận sự bất bình đẳng về tài sản, cổ vũ cho sự làm giàu của tư sản. Điển hình là năm 1791, chính quyền tư sản đã cho ra đời đạo luật Sa-pơ-lie cấm công nhân lập hội và đình công.
+ Không giải quyết được những lợi ích thiết thân cho bình dân thành thị và bần nông
+ Bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền không lên án chế độ thuộc địa. Về sau, Pháp là một trong những nước đi đầu trong việc xâm chiếm thuộc địa.
con đường ra đi tìm đường cứu nước của nguyễn ái quốc
Câu trả lời của bạn
Tại bến cảng nhà rồng
Tường thuật diễn biến của Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai ở Nga. Trong đó, rút ra đặc điểm chủ yếu của diễn biến cách mạng. Vì sao giai cấp công nhân Nga chưa nắm được chính quyền trong cách mạng tháng Hai?
Câu trả lời của bạn
* Diễn biến của Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai ở Nga.
- Ngày 23-2-1917, cách mạng bùng nổ bằng cuộc biểu tình của 9 vạn nữ công nhân Pê-tơ-rô-grat và lan rộng khắp thành phố.
- Đến ngày 27-2-1917, phong trào nhanh chóng chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Chiếm các công sở, bắt giam các tướng tá, bộ trưởng của Nga hoàng.
- Lãnh đạo: Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo công nhân chuyển từ tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang.
- Lực lượng tham gia: là công nhân, binh lính, nông dân
- Kết quả: chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng bị lật đổ. Xô viết đại biểu công nhân và binh lính được thành lập (tháng 3-1917, toàn nước Nga có 555 Xô Viết). Cùng thời gian, giai cấp tư sản cùng thành lập chính phủ tư sản lâm thời.
* Đặc điểm chủ yếu diễn biến cách mạng:
- Từ bãi công biểu tình của công nhân chuyển sang tổng bãi công chính trị chống chế độ Nga hoàng, rồi chuyển sang khởi nghĩa vũ trang lật đổ chế độ Nga hoàng và sau khi chính phủ Nga hoàng bị lật đổ, đã diễn ra cuộc đấu tranh giành chính quyền giữa vô sản và tư sản. Kết quả hình thành cục diện hai chính quyền song song tồn tại.
- Cách mạng diễn ra hết sức nahn chóng: chỉ trong vòng hai ngày 26-2 và 27-2 công nhân và binh lính cách mạng đã giành được thắng lợi ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grat, lật đổ chính phủ Nga hoàng đang nắm trong tay lực lượng vũ trang 14 triệu binh lính và mạng lưới cảnh sát, mật vụ khổng lồ.
- Vai trò đi đầu lãnh đạo và quyết định thắng lợi của giai cấp công nhân Nga.
* Giai cấp công nhân Nga chưa nắm được chính quyền trong cách mạng tháng Hai vì:
- Lúc này, Lê nin và các lãnh tụ Đảng Bôn sê vích đang ở nước ngoài.
- Giai cấp vô sản chưa đủ mạnh để nắm chính quyền.
- CHính quyền của gia cấp tư sản đang nắm trong tay bộ máy nhà nước.
- Phái Men-sê-vích và xã hội cách mạng sau khi giành chính quyền đã nhường cho giai cấp tư sản.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *