Nội dung bài học Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) sẽ giúp các em biết rõ sự khủng hoảng, lạc hậu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Thấy rõ âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và tóm tắt được quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, tinh thần chống Pháp của quan quân triều đình nhà Nguyễn và nhân dân ta (1858 – trước 1873).
a. Kinh tế:
b. Quân sự
c. Đối ngoại sai lầm
d. Xã hội
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng) chuẩn bị tấn công
Lược đồ chiến sự ở Đà Nẵng
Pháp tấn công và đổ bộ bán đảo Sơn Trà
Lược đồ chiến sự ở Gia Định
Tàu chiến Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ vào Sài Gòn năm 1859
Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định
Nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (10-12-1861).
Thực dân Pháp đánh chiếm và các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở 6 tỉnh Nam Kỳ 1859-1874
Trương Định nhận phong soái
Mặt trận | Cuộc tấn công của quân Pháp | Cuộc kháng chiến của triều Nguyễn | Cuộc kháng chiến của nhân dân |
Kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì sau Hiệp ước 1862. | Pháp dừng các cuộc thôn tính để bình định miền Tây | Triều đình ra lệnh giải tán các đội nghĩa binh chống Pháp |
|
Kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây Nam Kì |
|
|
|
Các em có thể hệ thống lại nội dung kiến thức đã học được thông qua bài kiểm tra Trắc nghiệm Lịch sử 11 Bài 19 cực hay có đáp án và lời giải chi tiết.
Điểm nổi bật của chế độ phong kiến Việt Nam giữa thế kỉ XIX là
Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng lưu tán trở nên phổ biến ở nước ta giữa thế kỉ XIX?
Nguyên nhân nào là cơ bản kiến công, thương nghiệp nước ta đình đốn ở thế kỉ XIX?
Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn thực chất là
Chính sách “cấm đạo” của nhà Nguyễn đã dẫn đến hậu quả gì?
Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc làm nào để chuẩn bị tiến hành xâm lược Việt Nam
Việc Nguyễn Ánh từng dựa vào Pháp để khôi phục quyền lợi của dòng họ Nguyễn đã tạo ra
Giữa thế kỉ XIX, Pháp ráo riết ìm cách đánh chiếm Việt Nam để
Năm 1857, Napôlêông III lập ra Hội đồng Nam Kì, tiếp đó cho sứ thần tới Huế đòi “tự do buôn bán và truyền đạo”, tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương. Những hành động đó chứng tỏ điều gì?
Vì sao Tây Ban Nha tham gia liên quân với Pháp xâm lược Việt Nam?
Câu 4-10: Mời các em đăng nhập xem tiếp nội dung và thi thử Online để củng cố kiến thức và nắm vững hơn về bài học này nhé!
Các em có thể xem thêm phần hướng dẫn Giải bài tập Lịch sử 11 Bài 19để giúp các em nắm vững bài học và các phương pháp giải bài tập.
Bài tập Thảo luận trang 107 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận trang 108 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận 1 trang 109 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận 2 trang 109 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận trang 110 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận 1 trang 111 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận 2 trang 111 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận trang 113 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận trang 114 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập Thảo luận trang 115 SGK Lịch sử 11 Bài 19
Bài tập 1 trang 115 SGK Lịch sử 11
Bài tập 2 trang 115 SGK Lịch sử 11
Bài tập 1.1 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.2 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.3 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.4 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.5 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.6 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.7 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.8 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.9 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 1.10 trang 96 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 2 trang 98 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 3 trang 98 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 4 trang 100 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 5 trang 100 SBT Lịch Sử 11
Bài tập 6 trang 101 SBT Lịch Sử 11
Trong quá trình học tập nếu có thắc mắc hay cần trợ giúp gì thì các em hãy comment ở mục Hỏi đáp, Cộng đồng Lịch sử DapAnHay sẽ hỗ trợ cho các em một cách nhanh chóng!
Chúc các em học tập tốt và luôn đạt thành tích cao trong học tập!
-- Mod Lịch Sử 11 DapAnHay
Điểm nổi bật của chế độ phong kiến Việt Nam giữa thế kỉ XIX là
Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng lưu tán trở nên phổ biến ở nước ta giữa thế kỉ XIX?
Nguyên nhân nào là cơ bản kiến công, thương nghiệp nước ta đình đốn ở thế kỉ XIX?
Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn thực chất là
Chính sách “cấm đạo” của nhà Nguyễn đã dẫn đến hậu quả gì?
Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc làm nào để chuẩn bị tiến hành xâm lược Việt Nam
Việc Nguyễn Ánh từng dựa vào Pháp để khôi phục quyền lợi của dòng họ Nguyễn đã tạo ra
Giữa thế kỉ XIX, Pháp ráo riết ìm cách đánh chiếm Việt Nam để
Năm 1857, Napôlêông III lập ra Hội đồng Nam Kì, tiếp đó cho sứ thần tới Huế đòi “tự do buôn bán và truyền đạo”, tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương. Những hành động đó chứng tỏ điều gì?
Vì sao Tây Ban Nha tham gia liên quân với Pháp xâm lược Việt Nam?
Nội dung nào không phải là lí do khiến Pháp quyết định chiếm Gia Định?
Tại sao khi chiếm được thành Gia Định năm 1859, quân Pháp lại phải dung thuốc nổ phá thành và rút xuống tàu chiến?
Khi chuyển hướng tấn công vào Gia Định, quân Pháp đã thay đổi kế hoạch xâm lược Việt Nam như thế nào?
Khi được điều từ Đà Nẵng vào Gia Định năm 1860, Nguyễn Tri Phương đã gấp rút huy động hàng vạn quân và dân binh để làm gì?
Vì sao năm 1861, Gia Định lại bị thất thủ mộ lần nữa?
Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn được kí kết trong hoàn cảnh nào?
Thiệt hại nghiêm trọng nhất của Việt Nam khi kí Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với Pháp là
Người đã kháng lệnh triều đình, phất cao ngọn cờ “Bình Tây Đại nguyên soái”, lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp là ai?
Sau khi kí Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình nhà Nguyễn Đã có chủ trương gì?
Sau khi kí Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình nhà Nguyễn Đã có chủ trương gì?
Sau khi kí Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình nhà Nguyễn Đã có chủ trương gì?
Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kì rơi vào tay quân Pháp, thái độ của nhân dân ta như thế nào?
Thực dân Pháp đã hành động ra sao sau khi buộc triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất?
Việc nhân dân chống lại lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp của triều đình chứng tỏ điều gì?
Ai là người đã chỉ huy nghĩa quân đánh chìm tàu Étpêrăng của Pháp trên song Vàm Cỏ Đông (1861) và có câu nói nổi tiếng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”
Quân Pháp đã chiếm được sáu tỉnh Nam Kì như thế nào?
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, thái độ của triều đình nhà Nguyễn và nhân dân như thế nào?
Thực dân Pháp chiếm xong Nam Kỳ vào thời gian:
Sau năm 1862, thái độ của triều đình đối với các nghĩa binh chống Pháp ở Gia Định, Biên Hòa, Định Tường là:
Sau khi chiếm thành Gia Định (1859), Pháp rơi vào tình thế:
Bị nghĩa quân bao vây, quấy rối liên tục.
Bị thương vong gần hết.
Bị bệnh dịch hoành hành.
Nêu tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XIX, trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Những hành động nào chứng tỏ thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam?
Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên?
Em có nhận xét gì về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta vào năm 1858?
Âm mưu của thực dân Pháp khi tấn công Gia Định là gì?
Hiệp ước Nhâm Tuất giữa Pháp và triều đình Huế (5-6-1862) được kí kết trong hoàn cảnh nào?
Nêu nội dung cơ bản của Hiệp ước Nhâm Tuất.
Em có suy nghĩ gì về hành động của Trương Định sau Hiệp ước 1862?
Ba tỉnh miền Tây Nam Kì đã rơi vào tay Pháp như thế nào?
Nêu những đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Pháp ở ba tỉnh miền Tây Nam Kì sau năm 1867.
Quan sát lược đồ (hình 52), xác định địa bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định và tường thuật ngắn gọn diễn biến của cuộc khởi nghĩa này.
Thông qua bài học, hãy nêu nhận xét về tinh thần chống Pháp của vua quan triều đình nhà Nguyễn.
Chính sách nào của nhà Nguyễn gây bất lợi cho sự phát triển của đất nước?
A. Đẩy mạnh khai hoang, lập đồn điền
B. Đẩy mạnh công tác thủy lợi, đắp đê dọc các sông lớn
C. Bế quan tỏa cảng
D. Nghiêm cấm nhân dân hội họp, họp chợ
Đường lối đối ngoại của nhà Nguyễn đã tạo điều kiện cho kẻ thù lợi dụng để tiến hành xâm lược nước ta là gì?
A. Cấm nhân dân tự động buôn bán với thương nhân nước ngoài
B. Cấm đạo, đuổi giáo sĩ
C. Khuyến khích thương nhân nước ngoài vào nước ta buôn bán
D. Bế quan tỏa cảng
Đặc điểm nổi bật của tình hình nước ta giữa thế kỉ XIX là
A. Chế độ phong kiến Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành.
B. Chế độ phong kiến việt Nam đang ở giai đoạn khủng hoảng, suy yếu.
C. Chế độ phong kiến Việt Nam được củng cố vững chắc.
D. Một lực lượng sản xuất mới - tư bản chủ nghĩa đang hình thành trong lòng xã hội phong kiến.
Hãy chọn phương án phù hợp điền vào chỗ trống (...) trong câu sau: "Âm mưu của Pháp là chiếm ....... làm căn cứ, rồi tấn công ra...., nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng"
A. Lăng Cô/Huế
B. Đà Nẵng/Huế
C. Đà Nẵng/Hà Nội
D. Huế/Hà Nội
Quân dân ta đã chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược như thế nào vào cuối năm 1858?
A. Triều đình ra lời hiệu triệu kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
B. Quân và dân sát cánh bên nhau đánh giặc, cầm chân quân Pháp suốt 5 tháng liền trên bán đảo Sơn Trà.
C. Trên vịnh Đà Nẵng, hải quân của triều đình Huế liên tiếp tấn công quân Pháp, đốt cháy nhiều tàu giặc.
D. Ngay từ đầu, quân Pháp đã làm chủ bán đảo Sơn Trà một cách dễ dàng.
Tại sao khi chiếm được thành Gia Định (1859), quân Pháp lại phải dùng thuốc nổ phá thành và rút xuống tàu chiến
A. Vì trong thành không có lương thực
B. Vì trong thành không có vũ khí
C. Vì quân triều đình phản công quyết liệt
D. Vì các đội dân binh ngày đêm bám sát và tiêu diệt chúng
Từ tháng 1 đến tháng 10 - 1860, cục diện trên chiến trường Nam Kì có đặc điểm sau:
A. Lực lượng quân Pháp rất đông và mạnh.
B. Lực lượng quân Pháp bị hạn chế đáng kể về số lượng do phải chia sẻ với các chiến trường khác
C. Quân đội triều đình Nguyễn ít hơn quân Pháp rất nhiều.
D. Tương quan lực lượng hai bên (ta và Pháp) cân bằng nhau.
Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn được kí kết trong hoàn cảnh nào?
A. Phong trào kháng chiến của nhân dân ta dâng cao, khiến quân Pháp vô cùng bối rối
B. Phong trào kháng chiến của nhân dân ta đang gặp khó khăn, bế tắc
C. Giặc Pháp chiếm Đại đồn Chí Hòa và đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì một cách dễ dàng
D. Quân triều đình bị tổn thất nặng nề, sợ hãi trước sức mạnh của quân Pháp
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX,chúng ta đã có những cơ hội để đánh bật Pháp ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.Hãy dẫn chứng những cơ hội đó trong gia đoạn 1859-1861 và giai đoạn 1873-1874 và giải thích vì sao nhà Nguyễn đã không biết tận dụng những cơ hội này?
Các bạn gợi ý giúp mình câu hỏi này nha.cảm ơn các bạn
Câu trả lời của bạn
*Những cơ hội mà Việt Nam có khả năng đánh bật thực dân Pháp ra khỏi lãnh thổ :
+Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được điều động từ Đà Nẵng vào chỉ huy Mặt trận Gia Định. Thời gian này, quân Pháp rút sang Trung Quốc để đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân Trung Quốc, chỉ để lại 1000 quân ở Việt Nam, trong khi Nguyễn Tri Phương có 12000 quân lại không dám tấn công chỉ thực hiện chiến thuật phòng ngự, bỏ qua một cơ hội đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước ta.
+Trận cầu giấy lần thứ nhất(1873) quân dân ta đã chặn đánh và tiêu diệt toàn bộ quan Pháp, giết được tên chỉ huy là Gacsnie, thực dân pháp hoang mang lo sợ phải tìm cách thương lượng với triều đình Huế. Quân và dân ta phấn khởi muốn xốc tới dành thắng lợi, song triều đình huế vừa sợ Pháp vừa sợ nhân dân nên đã đánh mất cơ hội đánh thắng pháp mà kí hiệp ước 1874
*Nhà Nguyễn không biết tận dụng cơ hội này vì:
+Từ khi thành lập, nhà Nguyễn đã thi hành chính sách bảo thủ.
+Trong quá trình chiến đấu, nhà nguyễn đã không có nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo mà chọn con đường sai lầm lớn là từ bỏ con đường đấu tranh, chủ đọng chống pháp mà đi vào con đương phòng ngự bị động, thương lượng .
+Nhà Nguyễn không kiên định với nhân dân kháng chiến mà còn tạo điều kiện cho pháp bảo toàn lực lượng.
+Trong quá trình kháng chiến nhà Nguyễn đã bỏ qua nhiều cơ hội để phản công và thắng pháp.
+Do triều đình có tư tưởng sợ pháp, không thấy tình hình mà chỉ thấy pháp vượt trội về vũ khí.
+Triều đình không tin vào năng lực kháng chiến của nhân dân. Có ảo tưởng thông qua thương thuyết để lấy lại các tỉnh đã mất
liệt kê các phong trào chống pháp của nhân dân ta từ 1858-1884?(thời gian,tên k/n,địa bàn)
mong mn giúp đỡ cho mình
Câu trả lời của bạn
Mình ko kẻ bảng đc nhưng bn tự làm nha mink ghi rõ í lắm ạ
1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ 1858 đến 1873
a. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858.
Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31 - 8 – 1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiếc thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng.
Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.
Sáng 1 – 9 – 1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó lại tích cực thực hiện “ vườn không nhà trống ” gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân Pháp-Tây Ban Nhabij cầm chân suốt 5 tháng ( từ cuối tháng 8 – 1958 đến đầu tháng 2 – 1859) trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược.
Khí thế kháng chiến sục sôi trong nhân dan cả nước
Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu “ đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.
b.Kháng chiến ở Gia Định
Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia Định.
Gia Định và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thủy ở đây rất thuận lợi. Từ Gia Định sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của tiều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho viêc làm chủ lưu vực sông Mê Công của Pháp.
Ngày 9 – 2- 1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liệt cuẩ quân dân a nên mãi tới ngày 16 – 2 – 1859 quân Pháp mới đến được Gia Định. Ngày 17 – 2, chúng nổ súng đánh thành. Quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại, các đội dân binh chiến đấu rất dũng cảm, ngày đêm bán sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng, quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống các tàu chiến. Kế hoạch “ đanh nhanh thắng nhanh ” bị thất bại, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch “ chinh phục từng gói nhỏ”.
Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam kì có sự thay đổi. Nước Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I–ta–li– a, phải cho rút toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định ( 23 – 3 – 1860 ). Vì phải chia sẻ lực lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1000 tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hòa mới được xây dựng, trong tư thế “ thủ hiểm”.
Từ tháng 3 – 1860, Nguyễn Tri Phương được lệnh từ Đà Nẵng vào Gia Định. Ông đã huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng Đại đòn Chí Hòa, vừa đồ sộ vừa vững chắc, nhưng vì không chủ động tấn công nên gần 1.000 quân Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta với một lực lượng từ 10.000 đến 12.000 người.
Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa dúng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng nhất trên phòng tuyến của địch(7-1860).
Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi (Đà Nẵng và Gia Định), rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lúc này trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng chủ hòa lan ra làm lòng người li tán.
c. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5 - 6 – 1862.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến ở Trung Quốc với Điều ước Bắc Kinh (25-10-1860), quân Pháp liền kéo về Gia Định, tiếp tục mở rộng việc đánh chiếm nước ta.
Ngày 23-2-1861, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Đại đồn Chí Hòa. Quân ta kháng cự quyết liệt, cuối cùng trước hỏa lực mạnh của địch, Đại đòn Chí Hòa đã rơi vào tay giặc. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường(12-4-1861), Biên Hòa(18-12-1861), Vĩnh Long(23-3-1862).
Khi giặc Pháp từ Gia Định đánh lan ra, cuộc kháng chiến của nhân dân ta càng phát triển mạnh hơn. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính, Lê Huy.....chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công. Ngày 10-12-1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông ( đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân dân ta.
Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày cangd dâng cao, khiến quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-1862).
Hiệp ước có 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như: triều đình nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì ( Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn ; bồi thường 20 triệu quan ( ước tính bằng 280 vạn lạng bạc ) ; triều đình phải mở ba cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha vào tự do buôn bán ; thành Vĩnh Long sẽ được trả lại cho triều đình Huế khi nào triều đình chấm dứt được các hoạt động chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông.
Thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong Hiệp ước 1862, triều đình Huế ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa.
Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ba tình miền Đông vẫn tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất, bám dân, cổ vũ nghĩa binh đánh Pháp và chống phong kiến đầu hàng. Phong trào “ tị địa” diễn ra sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng mới chiếm được. Các đội nghĩa quân vẫn không chịu hạ vũ khí mà hoạt động ngày càng mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Trương Định tiếp tục giành được chiến thắng, gâu cho Pháp nhiều khó khăn.
Trương Định là con trai của Lãnh binh Trương Cầm, quê ở Quảng Ngãi. Ông theo cha vào Nam từ hồi nhỏ. Năm 1850 , Công cùng Nguyễn Tri Phương mộ phu đồn điền, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản cơ. Năm 1859, khi Pháp đánh Gia Định, Trương Định đã đưa đội quân đồn điền của ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Tháng 3 – 1860, khi Nguyễn Tri Phương được điều vào Gia Định, ông lại chủ động đem quân phối hợp đánh địch. Tháng 2 – 1861, chiến tuyến Chí Hòa bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hòa (Gò Công), quyết tâm chiến đấu lâu dài.
Sau Hiệp ước 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức Lãnh Binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất lá cờ “Bình Tây Đại nguyên soái ”, hoạt động của nghĩa quân đã củng cố niềm tin của dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ.
Nghĩa quân tranh thủ thời gian ra sức xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí, liên kết lực lượng, đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi.
Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hòa, ngày 28 - 2 – 1863 giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở Tân Phước. Ngày 20 – 8 -1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào căn cứ Tân Phước. Nghĩa quân chống trả quyết liệt. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi.
d. Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nhân dân ba tỉnh miền Tây chống Pháp
Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tổ chức bộ máy cai trị và chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Năm 1863, thực dân Pháp dùng vũ lực áp đặt nền bảo hộ lên đất Cam–pu-chia. Sau đó, chúng vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước 1862, yêu cầu triều đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Trước yêu cầu này, triều đình vô cùng lúng túng.
Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20 – 6 – 1867, quân Pháp kéo đến trước thành Vĩnh Long, ép Phan Thanh Giản ( lúc đó đang giữ chức Kinh lược sứ của triều đình) phải nộp thành không điều kiện. Chúng còn khuyên ông viết thư cho quan quân hai tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí nộp thành.
Trong vòng 5 ngày ( từ 20 đến 24 – 6 – 1867), thực dân Pháp đã chiếm gọn ba tỉnh miền Tây Nam Kì ( Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên ) mà không tốn một viên đạn
Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Kì rơi vào tay Pháp, phong trào kháng chiến trong nhân dân vẫn tiếp tục dâng cao. Một số văn thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biên ra vùng Bình Thuận ( Nam Trung Kì ) nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số khác ở lại bám đất, bám dân, tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp.
Trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với thời kì thực dân Pháp mới xâm chiếm Nam Kì, phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Tây vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng ngày một chênh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ, cuối cùng phong phào đều bị đàn áp và thất bại.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói chung, của nhân dân ba tỉnh miền Tây nói riêng, là những biểu hiện cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta.
2. Kháng chiến chống Pháp của nhân dân ( 1873 – 1884)
a. Thực đân Pháp đánh chiếm bắc kì lần thứ nhất(1873). Kháng chiến của nhân dân Bắc Kì
Sau khi chiếm được các tỉnh Nam kì, Thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp chuẩn bị mở rộng cuộc chiến tranh ra cả nước. Chúng phái gián điệp ra Bắc, điều tra tình hình bố phòng của ta, bắt liên lạc với Giăng Đuy –Puy một lái buôn đang hoạt động ở vùng biển Trung Quốc- Việt Nam, ngoài ra Pháp còn lôi kéo một số tín đồ Công giáo lầm lạc, kích động họ nổi lên chống triều đình, hình thành đạo quân nội ứng cho cuộc xâm lược sắp đến.
Tháng 11-1872, ỷ thế nhà Thanh,Đuy Puy tự tiện cho tàu lên Vân Nam buôn bán, dù chưa được phép của triều đình Huế. Hắn còn ngang ngược đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng, có ngượng địa ở Hà Nội, được cấp than đá đẻ đưa sang Vân Nam, ính Pháp và thổ phỉ dưới trướng Đuy Puy cón cướp thuyền gạo của triều đình, bắt quan lính và dân ta đem xuống tàu; khước từ lời mời tới thương thuyết của Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Tri Phương…
Chớp cơ hội triều Nguyễn nhờ giải quyết “vụ Đuy- Puy” đang gây rối ở Hà Nội, Thực đan Pháp ở Sài Gòn phái đại úy Gác-ni-ê đưa quân ra Bắc.
Ngày 5-11-1873, đội tàu chiến của Gác-ni-ê đến Hà Nội. Sau khi hội quân với Đuy-Puy, quân Pháp liền giở trò khiêu khích.
Ngày 16-11-1873, sau khi có thêm viện binh, Gác-ni-ê liền tuyên bố mở cửa sông Hồng, áp dụng biểu thuế quan mới. Sáng 19-11, hắn gử tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu giải tán quân đội, nộp khí giới…không đợi trả lời, mờ sáng ngày 20-11-1873, quân Pháp nổ súng chiếm thành Hà Nội. Những ngày sau đó, chúng đưa quân đi chiếm các tỉnh thành ở đồng bằng Bắc kì: Hưng Yên(23-11),Phủ lý(26-11), Hải Dương(3-12), Ninh Bình( 5-12) và Nam Định(12-12).
Hành động xâm lược của Pháp khiến cho nhân dân ta vô cùng căm phẩn.
Ngay khi Gác-ni-ê Đến hà Nội, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp. Các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc. Kho thuốc súng ở bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy.
Khi địch nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 binh sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh đến người cuối cùng tại cửa Ô Thanh Hà ( sau dược đổi thành Ô Quan Chưởng) . Tronh thành Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thú quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, bị giặc bắt, ông đã khước từ sự chữa chạy của Pháp nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu.
Thành Hà Nội bị giặc chiếm, quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhưng nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục chiến đấu. Các sĩ phu, văn thân yêu nước đã lập Nghĩa hội bí mật tổ chức chống Pháp. Tại các tỉnh Hung Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định…quân Pháp củng vấp Phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta.
Trận đánh gây tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân ta tại Cầu Giấy ngày 21-12-1873.
Thừa lúc Gác-ni-ê đem quân xuống Nam Định, việc canh phòng Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy( có sự phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn Tây kéo về Hà Nội, hình thành trận tuyến bao vây quân địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê phải tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21-12-1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác-ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của ta tại khu vực Cầu Giấy, toán quân Pháp, trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị têu diệt.
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô caungf phấn khởi; ngược lại làm cho thực đân Pháp hoang mang, lo sợ và tìm cách thương lượng. Triều đình Huế lại kí Hiệp ước năm 1874( Hiệp ước Hác Măng), theo đó quân Pháp rút khỏi Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc kì, nhưng vẫn có điều kiện tiếp tục xây dựng cơ sở để thực hiện các bước xâm lược về sau.
Hiệp ước năm 1874 gồm 22 điều khoản . Với Hiệp ước này nhà Nguyyeenx chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam kì là đất thuộc Pháp, công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam của chúng…
Hiệp ước 1874gaay bất bình lớn trong sĩ phu và nhân dân yêu nước. Phong trào đấu tanh phản đối Hiệp ước dâng cao trong cả nước, đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy ở Nghệ An và Hà Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Huy Điển lảnh đạo .
b. Thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì Và Trung kì trong những năm 1882-1884.
Quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc kì lần thứ hai(1882-1883)
Từ những năm 70 của thế kỉ XIX , nước Pháp chuênr sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Yêu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân công và lợi nhuận được đặt ra ngày càng cấp thiết. thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam.
Để don đường quân Pháp lợi dụng các điều khoản của Hiệp ước 1874 để phái người di điều tra tình hình mọi mặt ở Bắc kì. Năm 1882, chúng lại vu cáo triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874 để lấy cớ kéo quân ra Bắc.
Ngày 3-4-1882, quân Pháp do Đại tá hải quân Ri-vi-e chỉ huy bất ngờ đổ quân lên Hà Nội. Ngày 25-4 sau khi dược tăng thêm viện binh, chúng gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, yêu cầu quân đội triều đình hạ vũ khí, giao thành trong vòng 3 giờ đồng hồ. Chưa hết thời hạn địch đã nổ súng chiếm thành.
Quân Pháp cướp nhiề vàng bạc, châu báu, phá hủy các cổng thành, các khẩu đại bác, vứt súng đạn xuống hào nước, lấy hành cung làm đại bản doanh, cho củng cố khu nhượng địa ở bờ sông Hồng, chiếm Sở Thương chính, dựng lên chính quyền tay sai để tạm thời cai quản Hà Nội.
Nhân lúc triều đình Huế còn đang hoang mang, lơ là, mất cảnh giác, Ri-vi-e đã cho quân chiếm vùng mỏ than Hòn Gai, Quảng Yên Và tỉnh thành Nam Định(3-1883)
c. Nhân dân Hà Nội và các tỉnh Bắc kì kháng chiến.
Ngay từ đầu quân Pháp đã vấp phải tinh thần chiến đấu của quân đân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa cản giặc. Trưa ngày 25-4, khi quân pháp mở cuộc tấn công vào thành, Hoàng Diệu đã lên mặt thành chỉ huy quân sĩ kiên quyết chống cự, nhưng vẫn không giữ được thành. Để bảo toàn khí tiết, sau khi thảo tờ di biểu gửi triều đình, Hoàng Diệu đã tự vẫn trong vườn Võ Miếu( dưới chân cột cờ Hà Nội ngày nay) để khỏi rơi vào tay giặc.
Thành Hà Nội rơi vào tay giặc, nhưng nhiều sĩ phu, văn thân vẫn tiếp tục tổ chức kháng chiến.
Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản đem quân chốt giữ Sơn Tây, Bắc Ninh hình thành hai gọng kìm áp sát Hà Nội . Nhân đân không bán lương thực cho Pháp. Nhiều đội nghĩa dũng được thành lập ở các tỉnh, tự động rào làng, đắp cản. Khi Pháp đánh Nam Định, nhân dân đốt hết các dãy phố dọc sông Vị Hoàng phía ngoài thành, tạo nên bức tường lửa ngăn quân giặc. Nguyễn Hữu Bản, con của Nguyễn Mậu Kiến, nối tiếp chí cha, mộ quân đánh Pháp và đã hi sinh trong chiến đấu.
Vòng vây của quân dân ta xung quanh hà nội ngày càng xiết chặt đã buộc Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19-5-1883, một toán quân Pháp do Ri-vi-e đích thân chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo dường đi Tây sơnnhwng đến Cầu Giấy bị đội quân thiện chiến của Hoàng Tá Viêm và Lưu vĩnh Phíc đổ ra đánh. Hàng chục tên giặc bị tiêu giệt, trong đó có cả Ri-vi-e.
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân ta. Tuy nhiên triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng thu hồi Hà Nội bằng con đường thương thuyết.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *