Qua bài giảng Kể chuyện: Kể chuyện đã nghe đã đọc về nàng tiên Ốc giúp các em rèn luyện kĩ năng kể lại được bằng ngôn ngữ và cách diễn đạt của mình truyện thơ Nàng tiên Ốc. Đồng thời, hiểu được ý nghĩa của câu chuyện: Con người cần yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau
* Đọc thầm đoạn 1 và trả lời câu hỏi: “Xưa có bà già nghèo” … ”bèn thả vào trong chum”
Câu 1. Bà lão nghèo làm gì để sống?
Câu 2. Con Ốc bà bắt có gì lạ?
Câu 3. Bà lão làm gì khi bắt được Ốc?
* Đọc thầm đoạn 2 và trả lời câu hỏi: “Rồi bà lại đi làm” … ”vườn rau tươi sạch cỏ”
Câu 4. Từ khi có Ốc, bà lão thấy trong nhà có gì lạ?
* Đọc thầm đoạn cuối và trả lời câu hỏi: “Bà già thấy chuyện lạ”…”rất là yêu thương nhau”
Câu 5. Khi rình xem, bà lão thấy điều gì kì lạ?
Câu 6. Khi đó , bà lão đã làm gì?
Câu 7. Câu chuyện kết thúc như thế nào?
* Thông điệp
* Nội dung, ý nghĩa
Cách 1. Kể lại câu chuyện "Nàng tiên Ốc", kết hợp miêu tả ngoại hình các nhân vật.
Bài mẫu 1
Thuở ấy có một bà già sống độc thân nhà lại rất nghèo, suốt ngày bà phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống qua ngày. Một hôm tình cờ bà nhặt được một con ốc. Vỏ nó phủ một màu xanh biển trông rất lạ, rất xinh. Bà không nỡ bán mà đem thả vào một cái chum nước.
Lạ thay từ ngày đó trở đi, mỗi lần bà đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược cây cối được vun xới, lợn gà ăn uống no say. Và một mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Bà quyết định tìm ra cho bằng được người đã ngấm lén giúp bà. Rồi một hôm, bà vẫn đi làm bình thường nhưng đến nửa ngày bà lén quây vè. Bà thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi đẹp như tiên sa giáng trần từ trong chum nước bước ra, nhẹ nhàng đi vào nhà. Cô gái cầm chổi quét nhà, dọn dẹp nhà cửa, cho lợn gà ăn,… Lúc đó bà lặng lẽ đến bên chum nước, cầm vỏ ốc rồi lén đập vỡ ra thành từng mảnh. Nghe tiếng động, cô gái vội vàng đến bên chum nước để ẩn mình vỏ ốc, nhưng đá quá muộn. Bà lão nhìn người con gái xinh đẹp cất tiếng nói:
- Con gái ơi! Hãy ở lại với ta!
Từ đó nàng tiên Ốc trở thành người con yêu quý của bà lão. Hai mẹ con bà sống thật đầm ấm hạnh phúc.
Bài mẫu 2
Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ có bà lão nghèo khổ quanh năm sống bằng nghề mò cua bắt ốc. Bộ váy áo nâu sồng của bà đã cũ lắm rồi, vá chằng vá đụp nhiều miếng, chẳng đủ giữ ấm cho bà trong những ngày giá lạnh.
Một hôm, bà lão bắt được một con ốc khác hẳn ốc thường, màu vỏ của nó xanh biếc nom rất đẹp. Thấy lạ, bà không bán mà thả vào chum nước để nuôi. Trưa hôm sau, về đến nhà, bà ngạc nhiên khi thấy sân vườn, nhà cửa đã được quét dọn sạch sẽ; mâm cơm đã được bày biện tinh tươm. Lợn trong chuồng ăn no, nằm lim dim ngủ. Ngoài vườn, mấy luống rau sạch cỏ và xanh mơn mởn vì vừa được tưới nước. Đêm hôm ấy, bà lão trằn trọc không ngủ. Bà tự nhủ sẽ tìm bằng được người đã giúp mình.
Tiếng gà gáy rộn trong thôn. Bà lão trở dậy, buộc cái giỏ ngang lưng, đội nón lên đầu rồi tất tả ra đồng kiếm con cua, con tép. Non trưa, bà lặng lẽ trở về, nấp kín sau bụi chuối ngoài vườn, rình xem thế nào. Bỗng nhiên, từ trong chum nước, một nàng tiên xiêm áo thướt tha nhẹ nhàng bước ra rồi đi vào bếp. Bà lão vội lấy chiếc vỏ ốc, đập vỡ tan để nàng tiên không còn chỗ chui vào nữa. Nghe tiếng động, nàng tiên ốc giật mình quay lại. Bà lão mừng rỡ nắm lấy tay nàng:
- Ồ! Thì ra con đã giúp bà lão nghèo khổ này đấy ư? Bà cảm ơn con!
Nàng tiên ốc lúng túng đáp lời:
- Dạ! Thưa bà, con xin đền đáp ơn cứu mạng của bà!
Bà lão móm mém cười:
- Thôi nào, ơn nghĩa có đáng kể gì! Từ nay, con hãy ở đây với bà. Bà cháu ta sớm tối có nhau, con có bằng lòng không?
Nàng tiên ốc bẽn lẽn gật đầu, đôi mắt sáng long lanh, đôi má ửng hồng trông tuyệt đẹp. Thế là từ đó, họ chung sống dưới mái tranh nghèo, hết lòng thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Tuổi già của bà cụ trôi qua trong những ngày vui vẻ và êm ấm.
Cách 2. Kể lại câu chuyện "Nàng tiên Ốc" bằng lời của một người dân trong làng.
Bài mẫu
Làng tôi có một bà lão sống cô độc một mình trong một ngôi nhà nhỏ. Bà đã già yếu, không thể cấy cày lại chẳng có con cháu đỡ đần nên cuộc sống rất nghèo khổ và chật vật. Hằng ngày, bà phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống, rất tội nghiệp. Bà con trong làng cũng thỉnh thoảng sang đỡ đần bà vài việc nhưng cũng không thể lúc nào cũng chăm sóc bà cụ được. Bởi vậy, bà thường sống lầm lũi một mình.
Bẵng đi một thời gian, tôi thấy lạ khi trong gian nhà hiu quạnh của bà cụ xuất hiện một cô gái xinh đẹp như tiên, tính tình hiền dịu và rất chịu thương chịu khó. Mọi việc trong nhà cô đều làm cho bà cụ. Bà vui lắm. Thấy chuyện lạ kì, tôi bèn sang hỏi thì được bà cụ kể lại.
Một hôm, bà tình cờ bắt được một con ốc rất xinh đẹp. Vỏ của nó phủ một màu xanh biếc, lấp la lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Thấy ốc đẹp, không nỡ đem bán nên bà đã đem ốc về và thả trong cái chum nước ngoài sân.
Lạ thay, từ ngày đó trở đi, mỗi lần bà đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược được vun xới, lợn gà được ăn uống no say. Đặc biệt lại có cả một mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Ban đầu, bà cũng tưởng hàng xóm thương mình già cả, côi cút nên sang giúp. Nhưng khi biết là không phải, bà quyết định tìm cho ra ai đã lén giúp mình.
Một ngày nọ, bà giả vờ đi làm như mọi khi. Nhưng thực ra đi đến nửa đường bà bèn quay lại, tìm nơi kín đáo rình xem…Chờ mãi, cuối cùng bà cũng thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi, đẹp như tiên sa giáng trần chui ra từ trong chum nước. Đó chính là cô gái mà ta thấy ở nhà bà cụ sau này. Nàng tiên nhẹ nhàng đi vào nhà rồi cầm chổi quét dọn, lau chùi nhà cửa, sân vườn và cho lợn gà ăn….Bà hết sức ngạc nhiên. Đoán chắc nàng tiên này chui ra từ vỏ ốc, lặng lẽ ba lại gần chum nước, cầm vỏ ốc lên rồi đập vỡ ra thành từng mảnh. Bởi bà không muốn cô gái biến mất nào trong vỏ ốc, bà muốn cô gái sống với mình nên đã làm vậy. Nghe tiếng động, cô gái vội chạy đến bên chum nước để ẩn mình trong vỏ ốc, nhưng đã quá muộn. Trước khi cô gái hết ngạc nhiên, bà cụ đã thuyết phục cô về ở với mình.
Và từ đó đến nay, bà sống hạnh phúc với cô con gái xinh đẹp và ngoan ngoãn của mình. Đúng là trời thương người. Bà lão ăn ở hiền lành nhân đức nên đã được hạnh phúc.
Cách 3. Kể lại câu chuyện "Nàng tiên Ốc" bằng lời của bà cụ.
Bài mẫu
Ta là một bà lão sống cô độc một mình trong một ngôi nhà nhỏ. Ta đã già yếu, không thể cấy cày lại chẳng có con cháu đỡ đần nên cuộc sống rất nghèo khổ. Hằng ngày, ta phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống. Một hôm, ta tình cờ bắt được một con ốc rất xinh đẹp. Vỏ của nó phủ một màu xanh biếc, lấp la lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Thấy ốc đẹp, ta không nỡ đem bán nên ta đã đem ốc về và thả trong cái chum nước ngoài sân.
Lạ thay, từ ngày đó trở đi, mỗi lần ta đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược được vun xới, lợn gà được ăn uống no say. Đặc biệt lại có cả một mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Ban đầu, ta tưởng hàng xóm thương ta già cả côi cút nên sang giúp. Nhưng không phải. Ta quyết định tìm cho ra bằng được người đã lén giúp mình.
Đúng theo kế hoạch, một hôm, ta giả vờ đi làm như mọi khi. Nhưng thực ra đi đến nửa đường ta bèn quay lại, tìm nơi kín đáo rình xem…Chờ mãi, cuối cùng ta cũng thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi, đẹp như tiên sa giáng trần chui ra từ trong chum nước. Nàng tiên nhẹ nhàng đi vào nhà rồi cầm chổi quét dọn, lau chìu nhà cửa, sân vườn và cho lợn gà ăn….Ta hết sức ngạc nhiên. Đoán chắc nàng tiên này chui ra từ vỏ ốc, lặng lẽ ta lại gần chum nước, cầm vỏ ốc lên rồi đập vỡ ra thành từng mảnh. Ta không muốn cô gái biến mất nào trong vỏ ốc, ta muốn cô sống với mình nên đã làm vậy. Nghe tiếng động, cô gái vội chạy đến bên chum nước để ẩn mình trong vỏ ốc, nhưng đã quá muộn. Thấy cô gái ngạc nhiên ta bèn lên tiếng:
- Con gái ơi! Hãy ở lại đây với ta.
Cô gái bằng lòng. Từ đó nàng tiên Ốc trở thành đứa con gái yêu của ta và nhờ có nàng mà cuộc sống của ta rất hạnh phúc.
Cách 4. Kể lại câu chuyện "Nàng tiên Ốc" bằng lời của cô gái.
Bài mẫu
Tôi vốn là một nàng tiên Ốc - con của vua thủy Tề. Một lần, tôi đang dạo chơi ven bờ sông thì có một bàn tay bắt lấy tôi. Thì ra đó là một bà cụ làm nghề mò cua bắt ốc. Bà đã già lắm rồi. khuôn mặt khắc khổ, quần áo rách nát. Bà ngắm tôi kĩ lắm vì tôi là một con ốc xanh xinh xắn. Bà cụ thốt lên:
- Chà, con ốc này đẹp quá! Ta không bán ốc đâu. Ta sẽ mang ốc về nuôi.
Thế là từ đó tôi sống trong cái chum trong nhà bà cụ. Thương bà cụ cô đơn, nghèo khổ, ngày ngày, sau khi bà cụ đi làm, tôi liền chui ra khỏi vỏ ốc để dọn dẹp nhà cửa, cho đàn lợn ăn, làm cỏ, tưới rau…Vì vậy, mỗi khi bà đi làm đồng về nhà cửa đều đã sạch tinh tươm. Thấy vậy, bà lão sinh nghi. Một hôm, bà giả vờ đi làm, đến giửa đường thì quay lại đứng rình. Như thường lệ, tôi lại chui ra khỏi vỏ ốc để giúp bà. Bỗng từ đâu bà chạy đến:
- Con ơi, con đừng đi nữa! Hãy ở lại đây với già cho già bớt cô quạnh.
Thương bà cụ tốt bụng tôi quyết định ở lại, không trở về Thủy Cung nữa. Từ đó hai mẹ con sống hạnh phúc bên nhau.
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Ta là thần Giao Long ngự trị dưới Thủy Cung. Thấy nhân dân xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn thường xuyên lễ Phật, tỏ lòng thiện tâm nên Phật Tổ đã nhờ ta xuống trần thử lòng dân chúng.
Trong hội cúng Phật ta thấy ai cũng nói sẽ làm điều tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi ta biến thành một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi ta. Chỉ có duy nhất mẹ góa con côi ở giữa làng thấy ta tội nghiệp bèn đưa ta về, cho ta ăn và mời ta ngủ lại. Đêm đó, ta lại thử lòng bà góa một lần nữa. Ta hóa thân trở về hình dáng Giao Long và nằm trên võng. Hai mẹ con họ thấy chỗ bà cụ - ta- nằm sáng rực lên và thấy hình dáng thực của ta nhưng không làm hại ta. Do đó, sáng hôm sau trước khi ra đi ta có nhắc nhở họ Vùng này sắp có lụt (Ta làm vậy để trừng phạt những kẻ chỉ biết nói suông, không biết thực hiện lời hứa, giả nhân giả nghĩa) và cho họ một túi tro. Ta còn dặn họ “nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. May phúc cho làng nam Mẫu, bà góa này có lòng tốt muốn cứu dân làng nên đã hỏi ta “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Ta thấy vậy rất vui nên đã giúp bà góa làm việc thiện bằng cách nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con họ hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Xong đâu đấy, ta bỏ đi. Hai mẹ con bà góa thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời ta dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng ngu muội không tin. Thật đáng trách.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái, ta bèn hóa phép cho một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Ngay sau đó, nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Giữa lúc dân làng không biết bấu víu vào đâu thì hai mẹ con nhà bà góa cứu họ lên thuyền và đưa về nhà. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo ta nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà ta cho khi trước. Chính sau trận lụt này, làng ấy bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa. Nó sẽ còn mãi với thời gian để nhắc nhở người dân cách sống tốt, cách sồng hướng thiện thật sự.
Một năm sau sự kiện xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn bị ngập chìm trong luc lụt, người dân trong làng trở về với cuộc sống bình thường. Năm đó, có một vị đại quan đi tuần qua đây, thấy trong làng có một cái hồ lớn, ở giữa nổi lên một cái gò trông rất đẹp và kì lạ. quan bèn cho gọi một vị bô lão trong làng đến hỏi chuyện.
- Nhân có công việc đi qua đây, ta thấy làng ngươi bỗng xuất hiện một chiếc hồ kì lạ. Ngươi hãy nói cho ta nghe xuât xứ của nó.
Ông lão bèn thưa:
- Nhắc đến chuyện này quả thật xấu hổ. Năm ngoái, làng lão có mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi bà. Chỉ có duy nhất mẹ góa con côi ở giữa làng thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Theo chị ta kể lại, tối hôm ấy, hai mẹ con bỗng thấy chỗ bà cụ nằm sáng rực lên và xuất hiện một con Giao Long to lớn đang cuộn mình ở đấy. Mẹ con nhà ấy sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
- Có chuyện kì lạ như vậy sao? Quan hỏi.
- Dạ thưa, chuyện kì lạ vẫn chưa hết đâu ạ! Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con không thấy Giao Long đâu cả. Trên chiếc võng vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà già sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. May phúc cho làng thần, chị ta có lòng tốt nên đã hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con nhà chị này hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Hai mẹ con nhà ấy thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng lão ngu muội không tin. Thật đáng trách.
- Chuyện tiếp theo như thế nào? Quan vội vàng hỏi.
- Dạ bẩm quan, đúng như lời bà lão nói. Tối hôm đó, khi dân chúng làng lão đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân làng lão sợ hãi vô cùng, chính bản thân lão cũng chới với trong dòng nước lớn. Đang không biết bấu víu vào đau thì lào được hai mẹ con nhà chị góa cứu lên thuyền và đưa về nhà chị. Những người khác cũng thế. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ lão đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con họ không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Chính sau sự kiện đó, làng lão bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộngn mà quan đã thấy. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa. Đó là tất cả những điều lão biết.
- Quả thật kì lạ! Vậy sau đó làng các ngươi đã làm lễ tạ tội với thần Giao Long chưa?
- Dạ bẩm, rồi ạ! Từ sau lần hút chết đó, dân làng rất chăm lo việc thiện. Thấy người nghéo đói, rách nát, bệnh tật đều hết lòng giúp đỡ. Đồng thời ngày đêm hương khói tạ lỗi với thần Giao Long.
- Các ngươi làm thế là phải. Biết sai phải sửa. Làm người sống phải có tính thiện từ trong tâm, chứ đừng chỉ giả bộ bên ngoài. Có như vậy trời phật mới phù hộ.
- Quan dạy rất phải. Bô lão nói.
Sau khi nghe xong câu chuyện, quan đi đến đâu cũng sai người kể lại cho dân vùng đó để răng dạy dân chúng. Cũng nhờ vậy nên sự tích hồ Ba Bể được lưu truyền khắp nơi và còn đến tận hôm nay.
Ta là thần Giao Long ngự trị dưới Thủy Cung. Thấy nhân dân xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn thường xuyên lễ Phật, tỏ lòng thiện tâm nên Phật Tổ đã nhờ ta xuống trần thử lòng dân chúng.
Trong hội cúng Phật ta thấy ai cũng nói sẽ làm điều tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi ta biến thành một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi ta. Chỉ có duy nhất mẹ góa con côi ở giữa làng thấy ta tội nghiệp bèn đưa ta về, cho ta ăn và mời ta ngủ lại. Đêm đó, ta lại thử lòng bà góa một lần nữa. Ta hóa thân trở về hình dáng Giao Long và nằm trên võng. Hai mẹ con họ thấy chỗ bà cụ - ta- nằm sáng rực lên và thấy hình dáng thực của ta nhưng không làm hại ta. Do đó, sáng hôm sau trước khi ra đi ta có nhắc nhở họ Vùng này sắp có lụt (Ta làm vậy để trừng phạt những kẻ chỉ biết nói suông, không biết thực hiện lời hứa, giả nhân giả nghĩa) và cho họ một túi tro. Ta còn dặn họ “nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. May phúc cho làng nam Mẫu, bà góa này có lòng tốt muốn cứu dân làng nên đã hỏi ta “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Ta thấy vậy rất vui nên đã giúp bà góa làm việc thiện bằng cách nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con họ hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Xong đâu đấy, ta bỏ đi. Hai mẹ con bà góa thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời ta dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng ngu muội không tin. Thật đáng trách.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái, ta bèn hóa phép cho một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Ngay sau đó, nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Giữa lúc dân làng không biết bấu víu vào đâu thì hai mẹ con nhà bà góa cứu họ lên thuyền và đưa về nhà. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo ta nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà ta cho khi trước. Chính sau trận lụt này, làng ấy bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa. Nó sẽ còn mãi với thời gian để nhắc nhở người dân cách sống tốt, cách sồng hướng thiện thật sự.
Ta là thần Giao Long ngự trị dưới Thủy Cung. Thấy nhân dân xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Kạn thường xuyên lễ Phật, tỏ lòng thiện tâm nên Phật Tổ đã nhờ ta xuống trần thử lòng dân chúng.
Trong hội cúng Phật ta thấy ai cũng nói sẽ làm điều tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi ta biến thành một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi ta. Chỉ có duy nhất mẹ goá con côi ở giữa làng thấy ta tội nghiệp bèn đưa ta về, cho ta ăn và mời ta ngủ lại. Đêm đó, ta lại thử lòng bà góa một lần nữa. Ta hóa thân trở về hình dáng Giao Long và nằm trên võng. Hai mẹ con họ thấy chỗ bà cụ – ta – nằm sáng rực lên và thấy hình dáng thực của ta nhưng không hề làm hại ta. Do đó, sánh hôm sau trước khi ra đi ta có nhắc nhở họ vùng này sắp có lụt (Ta làm vậy để trừng phạt những kẻ chỉ biết nói suông, không biết thực hiện lời hứa, giả nhân giả nghĩa) và cho họ một túi tro. Ta còn dặn họ “nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn May phúc cho làng Nam Mẫu, bà góa này có lòng tốt muôn cứu dân làng nên đã hỏi ta: “Làm thế nào để cứu được dân làng khỏi chết chìm”. Ta thấy vậy rất vui nên đã giúp bà góa làm việc thiện bằng cách nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho mẹ con họ hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Xong đâu đấy, ta bỏ đi. Hai mẹ con bà góa thấy điềm lạ, nên vội vàng làm theo lời ta dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng ngu muội không tin. Thật đáng trách.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái, ta bèn hóa phép cho một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nể dữ dội. Ngay sau đó, nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Giữa lúc dân làng không biết bấu víu vào đâu thì hai mẹ con nhà bà góa cứu họ lên thuyền và đưa về nhà. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời ta nên nhà của hai mẹ con họ mới không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng là hai mảnh vỏ trấu mà ta cho khi trước. Chính sau trận lụt này, làng ấy bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nối lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Ta là thần Giao Long ngự trị dưới Thủy Cung. Thấy nhân dân xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn thường xuyên lễ Phật, tỏ lòng thiện tâm nên Phật Tổ đã nhờ ta xuống trần thử lòng dân chúng.
Trong hội cúng Phật ta thấy ai cũng nói sẽ làm điều tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi ta biến thành một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi ta. Chỉ có duy nhất mẹ góa con côi ở giữa làng thấy ta tội nghiệp bèn đưa ta về, cho ta ăn và mời ta ngủ lại. Đêm đó, ta lại thử lòng bà góa một lần nữa. Ta hóa thân trở về hình dáng Giao Long và nằm trên võng. Hai mẹ con họ thấy chỗ bà cụ - ta- nằm sáng rực lên và thấy hình dáng thực của ta nhưng không làm hại ta. Do đó, sáng hôm sau trước khi ra đi ta có nhắc nhở họ Vùng này sắp có lụt (Ta làm vậy để trừng phạt những kẻ chỉ biết nói suông, không biết thực hiện lời hứa, giả nhân giả nghĩa) và cho họ một túi tro. Ta còn dặn họ “nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. May phúc cho làng nam Mẫu, bà góa này có lòng tốt muốn cứu dân làng nên đã hỏi ta “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Ta thấy vậy rất vui nên đã giúp bà góa làm việc thiện bằng cách nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con họ hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Xong đâu đấy, ta bỏ đi. Hai mẹ con bà góa thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời ta dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng ngu muội không tin. Thật đáng trách.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái, ta bèn hóa phép cho một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Ngay sau đó, nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Giữa lúc dân làng không biết bấu víu vào đâu thì hai mẹ con nhà bà góa cứu họ lên thuyền và đưa về nhà. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo ta nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà ta cho khi trước. Chính sau trận lụt này, làng ấy bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa. Nó sẽ còn mãi với thời gian để nhắc nhở người dân cách sống tốt, cách sồng hướng thiện thật sự.
Câu trả lời của bạn
Chồng tôi xấu số mất sớm. Tôi sống cùng đứa con tại xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn.
Năm ngoái, làng tôi mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì ai nấy đều kinh sợ và xua đuổi bà. Tôi thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Tối hôm ấy, hai mẹ con tôi đang ngủ chợt tỉnh giấc vì một thứ ánh sáng rực rỡ phát ra từ chỗ bà cụ nằm. Nhìn kĩ, tôi và con thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình trên võng. Mẹ con tôi sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con tôi vẫn bình an, không thấy Giao Long đâu cả. Chỗ ấy vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà lão sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con tôi: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. Tôi không muốn chỉ mình mình sống trong khi dân làng phải chết nên mạnh dạn hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con tôi hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Mẹ con tôi thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Tôi và con còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng không ai chịu tin. Họ đều cho rằng chúng tôi bị mất trí.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Thấy vậy, tôi liền cùng con, mỗi người chèo một chiếc thuyền đi cứu dân làng đưa về nhà mình tránh lũ. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ mẹ con tôi đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Sau sự kiện đó, làng tôi bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con tôi nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Chồng tôi xấu số mất sớm. Tôi sống cùng đứa con tại xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn.
Năm ngoái, làng tôi mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì ai nấy đều kinh sợ và xua đuổi bà. Tôi thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Tối hôm ấy, hai mẹ con tôi đang ngủ chợt tỉnh giấc vì một thứ ánh sáng rực rỡ phát ra từ chỗ bà cụ nằm. Nhìn kĩ, tôi và con thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình trên võng. Mẹ con tôi sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con tôi vẫn bình an, không thấy Giao Long đâu cả. Chỗ ấy vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà lão sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con tôi: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. Tôi không muốn chỉ mình mình sống trong khi dân làng phải chết nên mạnh dạn hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con tôi hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Mẹ con tôi thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Tôi và con còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng không ai chịu tin. Họ đều cho rằng chúng tôi bị mất trí.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Thấy vậy, tôi liền cùng con, mỗi người chèo một chiếc thuyền đi cứu dân làng đưa về nhà mình tránh lũ. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ mẹ con tôi đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Sau sự kiện đó, làng tôi bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con tôi nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Chồng tôi xấu số mất sớm. Tôi sống cùng đứa con tại xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn.
Năm ngoái, làng tôi mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì ai nấy đều kinh sợ và xua đuổi bà. Tôi thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Tối hôm ấy, hai mẹ con tôi đang ngủ chợt tỉnh giấc vì một thứ ánh sáng rực rỡ phát ra từ chỗ bà cụ nằm. Nhìn kĩ, tôi và con thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình trên võng. Mẹ con tôi sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con tôi vẫn bình an, không thấy Giao Long đâu cả. Chỗ ấy vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà lão sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con tôi: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. Tôi không muốn chỉ mình mình sống trong khi dân làng phải chết nên mạnh dạn hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con tôi hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Mẹ con tôi thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Tôi và con còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng không ai chịu tin. Họ đều cho rằng chúng tôi bị mất trí.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Thấy vậy, tôi liền cùng con, mỗi người chèo một chiếc thuyền đi cứu dân làng đưa về nhà mình tránh lũ. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ mẹ con tôi đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Sau sự kiện đó, làng tôi bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con tôi nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Chồng tôi xấu số mất sớm. Tôi sống cùng đứa con tại xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn.
Năm ngoái, làng tôi mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì ai nấy đều kinh sợ và xua đuổi bà. Tôi thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Tối hôm ấy, hai mẹ con tôi đang ngủ chợt tỉnh giấc vì một thứ ánh sáng rực rỡ phát ra từ chỗ bà cụ nằm. Nhìn kĩ, tôi và con thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình trên võng. Mẹ con tôi sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con tôi vẫn bình an, không thấy Giao Long đâu cả. Chỗ ấy vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà lão sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con tôi: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. Tôi không muốn chỉ mình mình sống trong khi dân làng phải chết nên mạnh dạn hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con tôi hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Mẹ con tôi thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Tôi và con còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng không ai chịu tin. Họ đều cho rằng chúng tôi bị mất trí.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Thấy vậy, tôi liền cùng con, mỗi người chèo một chiếc thuyền đi cứu dân làng đưa về nhà mình tránh lũ. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ mẹ con tôi đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Sau sự kiện đó, làng tôi bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con tôi nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Câu trả lời của bạn
Xưa ở xã Nam Mẫu (thuộc tỉnh Bắc Cạn) có mở ngày hội cúng Phật rất đông vui. Mọi người thi nhau cúng Phật cầu phúc. Một hôm, bỗng nhiên xuất hiện một bà già ăn xin, trông bà ta thật bẩn thỉu, gớm giếc, mọi người ai cũng ghét và xa lành bà ta.
Cách đó không xa, có một gia đình chỉ có hai mẹ con sống rất nghèo khổ thấy bà cụ đói rách thì thương xót, cho ăn, cho ngủ. Đêm hôm ấy người mẹ tỉnh giấc thấy trên chiếc chông giữa nhà có một luồng ánh sáng, rực lên trong đêm mà chẳng thấy bà lão đâu cả. Người mẹ chỉ thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình nằm ngủ. Người mẹ vô cùng sợ hải, nhưng cũng chẳng biết phải làm gì và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, bà lão chuẩn bị đồ đạc để ra đi, bà lão nói: Chúng nó thờ Phật mà kì thực là buôn Phật. Đáng phải chịu tội chết chìm, chỉ có mẹ con nhà bà là tốt bụng. Thế rồi bà cho hai mẹ con một gói tro, dặn rắc quanh nhà và một chiếc vỏ trấu rồi vụt biến mất.
Hai mẹ con đem chuyện kỳ lạ kể cho mọi người nghe nhưng chẳng có ai tin. Họ chỉ cười. tối đến, khi mọi người đang làm lễ bái thì bỗng từ dưới đất có một dòng nước phun lên chính giữa bàn thờ Phật, nước phun mỗi lúc một mạnh và cuốn phăng đi tất cả đồ đạc, người, vật, nhà cửa, đất đá…tạo thành một cái hố rất sâu. Nhưng lạ thay, nền nhà của hai mẹ con nhà kia vẫn còn và được nâng lên cao theo dòng nước.
Nhớ lời bà lão dặn, hai mẹ con lấy mảnh trấu ra, vừa đặt xuống thì ngay lập tức nó biến thành chiếc thuyền, hai mẹ con họ chèo thuyền, cố hết sức để cứu giúp những người gặp nạn.
Ngày nay, chỗ đất sự do nước lũ đó chính là hồ Ba Bể, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, đó là nền nhà của hai mẹ con nhà kia. Mọi người gọi đó là “Pô Giả mải” nghĩa là “Gò Bà Góa”.
Xưa ở xã Nam Mẫu (thuộc tỉnh Bắc Cạn) có mở ngày hội cúng Phật rất đông vui. Mọi người thi nhau cúng Phật cầu phúc. Một hôm, bỗng nhiên xuất hiện một bà già ăn xin, trông bà ta thật bẩn thỉu, gớm giếc, mọi người ai cũng ghét và xa lành bà ta.
Cách đó không xa, có một gia đình chỉ có hai mẹ con sống rất nghèo khổ thấy bà cụ đói rách thì thương xót, cho ăn, cho ngủ. Đêm hôm ấy người mẹ tỉnh giấc thấy trên chiếc chông giữa nhà có một luồng ánh sáng, rực lên trong đêm mà chẳng thấy bà lão đâu cả. Người mẹ chỉ thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình nằm ngủ. Người mẹ vô cùng sợ hải, nhưng cũng chẳng biết phải làm gì và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, bà lão chuẩn bị đồ đạc để ra đi, bà lão nói: Chúng nó thờ Phật mà kì thực là buôn Phật. Đáng phải chịu tội chết chìm, chỉ có mẹ con nhà bà là tốt bụng. Thế rồi bà cho hai mẹ con một gói tro, dặn rắc quanh nhà và một chiếc vỏ trấu rồi vụt biến mất.
Hai mẹ con đem chuyện kỳ lạ kể cho mọi người nghe nhưng chẳng có ai tin. Họ chỉ cười. tối đến, khi mọi người đang làm lễ bái thì bỗng từ dưới đất có một dòng nước phun lên chính giữa bàn thờ Phật, nước phun mỗi lúc một mạnh và cuốn phăng đi tất cả đồ đạc, người, vật, nhà cửa, đất đá…tạo thành một cái hố rất sâu. Nhưng lạ thay, nền nhà của hai mẹ con nhà kia vẫn còn và được nâng lên cao theo dòng nước.
Nhớ lời bà lão dặn, hai mẹ con lấy mảnh trấu ra, vừa đặt xuống thì ngay lập tức nó biến thành chiếc thuyền, hai mẹ con họ chèo thuyền, cố hết sức để cứu giúp những người gặp nạn.
Ngày nay, chỗ đất sự do nước lũ đó chính là hồ Ba Bể, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ, đó là nền nhà của hai mẹ con nhà kia. Mọi người gọi đó là “Pô Giả mải” nghĩa là “Gò Bà Góa”.
Ngày xưa, có lần dân làng Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Cạn mở ngày hội cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem hội. Bỗng nhiên, xuất hiện một bà cụ ăn mày không biết từ đâu đến. Trông bà thật gớm ghiếc, thân thể gầy còm, lở loét, mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Bà cụ chỉ phều phào mấy tiếng: “Tôi đói lắm, các ông, các bà ơi!”, rồi chìa tay ra bốn phía cầu xin.
Ngày xưa, có lần dân làng Nam Mẫu thuộc tỉnh Bắc Cạn mở ngày hội cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem hội.
Bỗng nhiên, xuất hiện một bà cụ ăn mày không biết từ đâu đến. Trông bà thật gớm ghiếc, thân thể gầy còm, lở loét, mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Bà cụ chỉ phều phào mấy tiếng: “Tôi đói lắm, các ông, các bà ơi!”, rồi chìa tay ra bốn phía cầu xin.
Nhưng đến đâu bà cụ cũng bị xua đuổi. Lê bước khỏi đám hội, vào nhà nào bà cũng bị hắt hủi. May sao đến ngã ba, bà gặp mẹ con nhà kia vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn xin tội nghiệp, người mẹ thương tình đưa về nhà, lấy cơm cho ăn, rồi mời nghỉ lại qua đêm.
Đến giữa khuya, hai mẹ con bỗng thấy chỗ bà cụ nằm sáng rực lên. Nhưng lạ thay, ở đấy không còn bà lão ăn xin già yếu, lở loét nữa mà có một con giao long to lớn đang cuộn mình, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Mẹ con bà goá rụng rời kinh hãi, đành nhắm mắt nằm im, phó mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ chẳng thấy giao long đâu cả. Trên chõng vẫn là bà cụ ăn mày ốm yếu. Bà cụ đang sửa soạn ra đi. Bà nói: “Vùng này sắp có lụt lớn. Ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh nhà mới tránh được nạn".
Người mẹ nghe vậy lấy làm lạ, bèn hỏi: "Thưa cụ, vậy làm sao để cứu mọi người khỏi chết chìm?”. Bà cụ suy nghĩ giây lát rồi nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa vỏ trấu cho hai mẹ con và bảo: “Hai mảnh vỏ trẩu này sẽ giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện".
Nói rồi, vụt một cái, đã không thấy bà cụ đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi báo cho mấy người gần đó biết. Họ đều bật cười, cho đó là chuyện bâng quơ.
Tối hôm ấy, đám hội đang náo nhiệt, mọi người đang sì sụp lễ bái, bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên, mỗi lúc một mạnh. Đất xung quanh lở dần. Lúc đó. mọi người đều kinh hoảng, chen nhau chạy tháo thân. Nhưng không kịp nữa rồi. Đất dưới chân họ rung chuyển. Một tiếng ầm dữ dội nổi lên, nhà cửa, người và vật đều chìm sâu dưới nước.
Trong khi tất cả đều ngập trong biển nước thì ngôi nhà nhỏ của hai mẹ con người đàn bà goá vẫn khô ráo vì nền nhà của họ mỗi lúc một cao lên. Đau xót trước cảnh nước lũ bất ngờ tàn phá, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, vỏ trấu hoá thành hai chiếc thuyền lớn. Thế là mặc gió mưa, họ chèo thuyền đi khắp nơi, cố sức vớt những người bị nạn.
Chỗ đất sụt xuống ấy chính là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con thành một hòn đảo nhỏ trong hồ. Người địa phương gọi chỗ ấy là gò Bà Goá.
Cha tôi xấu số mất sớm. Tôi sống cùng mẹ già tại xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn.
Năm ngoái, làng tôi mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì ai nấy đều kinh sợ và xua đuổi bà. Mẹ tôi thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Tối hôm ấy, hai mẹ con tôi đang ngủ chợt tỉnh giấc vì một thứ ánh sáng rực rỡ phát ra từ chỗ bà cụ nằm. Nhìn kĩ, tôi và mẹ thấy một con Giao Long to lớn đang cuộn mình trên võng. Mẹ con tôi sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con tôi vẫn bình an, không thấy Giao Long đâu cả. Chỗ ấy vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà lão sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con tôi: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. Mẹ tôi không muốn chỉ mình mình sống trong khi dân làng phải chết nên mạnh dạn hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con tôi hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Mẹ con tôi thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Mẹ và tôi chia nhau đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng không ai chịu tin. Họ đều cho rằng chúng tôi bị mất trí.
Tối hôm đó, khi dân làng đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân trong làng sợ hãi vô cùng. Thấy vậy, tôi và mẹ, mỗi người chèo một chiếc thuyền đi cứu dân làng đưa về nhà mình tránh lũ. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ mẹ con tôi đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con tôi không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Sau sự kiện đó, làng tôi bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộng lớn. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con tôi nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa.
Một năm sau sự kiện xã Nam Mẫu, tỉnh Bắc Cạn bị ngập chìm trong luc lụt, người dân trong làng trở về với cuộc sống bình thường. Năm đó, có một vị đại quan đi tuần qua đây, thấy trong làng có một cái hồ lớn, ở giữa nổi lên một cái gò trông rất đẹp và kì lạ. quan bèn cho gọi một vị bô lão trong làng đến hỏi chuyện.
- Nhân có công việc đi qua đây, ta thấy làng ngươi bỗng xuất hiện một chiếc hồ kì lạ. Ngươi hãy nói cho ta nghe xuât xứ của nó.
Ông lão bèn thưa:
- Nhắc đến chuyện này quả thật xấu hổ. Năm ngoái, làng lão có mở hội cúng Phật. Ai cũng lo làm việc tốt để cầu phúc. Nhưng đáng tiếc, mọi người chưa thực sự có tâm nên hôm ấy, khi một bà lão mình mẩy lở loét xuất hiện giữa đám hội xin ăn thì mọi người đều kinh sợ và xua đuổi bà. Chỉ có duy nhất mẹ góa con côi ở giữa làng thấy bà lão tội nghiệp bèn đưa bà cụ về, cho bà cụ ăn và mời bà ngủ lại. Theo chị ta kể lại, tối hôm ấy, hai mẹ con bỗng thấy chỗ bà cụ nằm sáng rực lên và xuất hiện một con Giao Long to lớn đang cuộn mình ở đấy. Mẹ con nhà ấy sợ quá đành nhắm mắt mặc cho số phận.
- Có chuyện kì lạ như vậy sao? Quan hỏi.
- Dạ thưa, chuyện kì lạ vẫn chưa hết đâu ạ! Sáng hôm sau tỉnh dậy, hai mẹ con không thấy Giao Long đâu cả. Trên chiếc võng vẫn là bà cụ gầy yếu. Rồi bà già sửa soạn ra đi. Trước lúc tạm biệt, bà lão nói với hai mẹ con: “Vùng này sắp có lụt lớn. ta cho hai mẹ con chị gói tro này, nhớ rắc xung quanh nhà mới tránh được nạn”. May phúc cho làng thần, chị ta có lòng tốt nên đã hỏi bà cụ: “Làm thế nào để cứu dân làng khỏi chết chìm”. Bà lão liền nhặt một hạt thóc, cắn vỡ ra, đưa cho hai mẹ con nhà chị này hai mảnh vỏ trấu và nói: “Hai mảnh vỏ trấu này giúp mẹ con nhà chị làm việc thiện”. Nói rồi bà biến mất. Hai mẹ con nhà ấy thấy điềm lạ nên vội vàng làm theo lời bà cụ dặn. Họ còn đi báo cho dân làng biết sắp có lũ để tránh nhưng dân làng lão ngu muội không tin. Thật đáng trách.
- Chuyện tiếp theo như thế nào? Quan vội vàng hỏi.
- Dạ bẩm quan, đúng như lời bà lão nói. Tối hôm đó, khi dân chúng làng lão đang cúng bái thì bỗng có một cột nước từ dưới đất phun lên kèm theo một tiếng nỗ dữ dội. Nhà cửa, người vật đều chìm trong biển nước. Người dân làng lão sợ hãi vô cùng, chính bản thân lão cũng chới với trong dòng nước lớn. Đang không biết bấu víu vào đau thì lào được hai mẹ con nhà chị góa cứu lên thuyền và đưa về nhà chị. Những người khác cũng thế. Chả là nhờ rắc tro quanh nhà theo lời bà lão – giờ lão đã biết là thủy thần – nên nhà của hai mẹ con họ không bị chìm trong nước. Nước càng dâng cao bao nhiêu, nền nhà lại cao lên bấy nhiêu. Còn chiếc thuyền chở dân chúng chính là hai mảnh vỏ trấu mà bà lão cho khi trước. Chính sau sự kiện đó, làng lão bị sụt lún, tạo thành một cái hồ rộngn mà quan đã thấy. Dân làng gọi là hồ Ba Bể. Còn cái nền nhà của hai mẹ con họ nổi lên như một cái gò giữa hồ, dân làng gọi là gò Bà Góa. Đó là tất cả những điều lão biết.
- Quả thật kì lạ! Vậy sau đó làng các ngươi đã làm lễ tạ tội với thần Giao Long chưa?
- Dạ bẩm, rồi ạ! Từ sau lần hút chết đó, dân làng rất chăm lo việc thiện. Thấy người nghéo đói, rách nát, bệnh tật đều hết lòng giúp đỡ. Đồng thời ngày đêm hương khói tạ lỗi với thần Giao Long.
- Các ngươi làm thế là phải. Biết sai phải sửa. Làm người sống phải có tính thiện từ trong tâm, chứ đừng chỉ giả bộ bên ngoài. Có như vậy trời phật mới phù hộ.
- Quan dạy rất phải. Bô lão nói.
Sau khi nghe xong câu chuyện, quan đi đến đâu cũng sai người kể lại cho dân vùng đó để răng dạy dân chúng. Cũng nhờ vậy nên sự tích hồ Ba Bể được lưu truyền khắp nơi và còn đến tận hôm nay.
Ngày xửa ngày xưa, thần Giao Long biến thành bà lão già nua bệnh tật để đi thử lòng mọi người. Đến đâu bà lão cũng bị người ta xa lánh. Một hôm bà lão tìm đến một nơi đang diễn ra lễ hội đồng vui. Mọi người đều ăn mặc đẹp, thắp hương khấn cầu Trời, Phật, thần linh ban cho nhiều phúc lộc. Ai cũng nói đến chuyện làm phúc, chuyện lễ nghĩa. Nhưng mọi người đều xa lánh, đều từ chối, đều xua đuổi bà lão đói khổ khi bà cất tiếng van xin.
Trời sắp tối. Bà lão ăn mày lập cập bước vào một túp lều của hai mẹ con bà Góa nghèo khổ. Chỉ có một bát cơm nguội, hai mẹ con dành cho bà lão ăn mày. Chỉ có một manh chiếu rách, hai mẹ con cũng nhường cho con người khốn khổ. Bà lão ăn mày cảm động lắm cất tiếng cảm ơn và nói: "Hai mẹ con bà tuy nghèo mà phúc đức lắm, Trời sẽ phù hộ cho". Trước khi bước ra đi, bà lão đưa cho hai mẹ con bà Góa một gói tro, một chiếc vỏ trấu và dặn: "Nhớ giữ lấy để phòng thân. Lũ lụt, mưa to gió lớn thì rắc tro xung quanh nhà. Nước dâng lên thì thả vỏ trấu xuống...". Rồi bà lão ăn mày biến mất.
Đêm ấy mưa to gió lớn, thần Giao Long còn hóa phép làm cho đất sụt xuống, nước phun lên, dâng lên trắng cả trời đất như biển. Nhiều người bị chết đuối, bị lũ cuốn đi. Hai mẹ con bà Góa rắc tro xung quanh túp lều mình, nước không tràn vào được. Chiếc vỏ trấu, hai mẹ con vừa thả xuống nước, tức thì hóa thành một chiếc thuyền độc mộc rất to, rất dài. Với chiếc thuyền độc mộc ấy, hai mẹ con bà Góa đã cứu được bao nhiêu người thoát chết. Họ không bao giờ quên công ơn của hai mẹ con bà.
Nơi thần Giao Long làm sụt đất ấy biến thành một cái hồ sâu, dài, rộng, bốn bề là vách núi, được người đời gọi là hồ Ba Bể. Giữa hồ mênh mông nổi lên một cái gò cao gọi là gò Bà Góa.
Đã bao đời nay, dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao:
"Bắc Cạn có suối đãi vàng,
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh".
Câu trả lời của bạn
Đời nhà Lí có một vị quan nổi tiếng là người chính trực. Đó là Tô Hiến Thành. Năm 1175 vua Lí Anh Tông mất, di chiếu cho Tô Hiến Thành lập thái tử Long Cán con bà thái hậu họ Đỗ, lên ngôi. Nhưng một bà thái hậu khác lại muốn lập con mình là Long Xưởng lên ngôi vua, bèn tìm cách đút vàng bạc cho vợ Tô Hiến Thành để nhờ ông giúp đỡ. Tô Hiến Thành không nghe nhất định lập Long Cán làm vua theo di chiếu. Phò tá vua Cao Tông ( tức Long Cán) được 4 năm thì ông lâm bệnh. Người mà ngày đêm hầu tạ bên giường bệnh là quan tham trị chính sự Vũ Tán Đường. Còn vị quan gián nghị đại phu Trần Trung Tá do bận nhiều công việc nên rất ít đến thăm Tô Hiến Thành. Một hôm, bà thái hậu họ Đỗ và vua Cao Tông tới thăm, hỏi ông :
- Nếu chẳng may ông mất đi thì ai sẽ người thay ông ?
Tô Hiến Thành không do dự đáp ngay :
- Đó là gián nghị đại phu Trần Trung Tá
Thái hậu ngạc nhiên nói:
- Vũ Tán Đường hết lòng vì ông, sao không tiến cử
- Nếu thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá- Tô Hiến Thành nói
Qua câu chuyện trên, Tô Hiến Thành đã là một tấm gương sáng trong sử sách về lòng trung thực và trách nhiệm cao cả đối với dân với nước mà thế hệ chúng ta hôm nay cần noi theo
Như bao buổi tối khác, hôm đó khi đã học xong bài, em nằm trong vòng tay mẹ để nghe mẹ kể chuyện. Mỗi ngày mẹ đều kể chuyện cho em nghe trước khi đi ngủ. Hôm ấy, mẹ không kể chuyện cổ tích, ngụ ngôn hay truyện cười. Mẹ kể chuyện của mẹ – một người trung thực.
Năm em học lớp 2, để có tiền nuôi em và các chị đi học, ngoài việc đồng áng mẹ còn tranh thủ đi mua sắt vụn nữa. Những buổi trưa, khi chuẩn bị cho 3 chị em bữa ăn sau giờ học, dặn dò từng đứa công việc buổi chiều, mẹ lại đạp xe đi đến từng nhà để mua giấy, nhựa, sắt… tất cả những gì có thể bán được không kể nắng mưa.
Mẹ kể: Có những hôm may mắn, vào gia đình người ta vừa có tiệc, mẹ mua được rất nhiều thứ, mẹ vui lắm vì lại có được thêm tiền cho các con mua thêm sách, vở. Nhưng cũng có những hôm, mẹ đến khi người ta ngủ trưa, có người tỏ ra cáu gắt, mẹ luôn bình tĩnh, nói lời xin lỗi và đi ra. Từ khi có nghề tay trái, mặc dù là buôn bán nhưng mẹ chưa để ai mất lòng.
Mẹ nhắc lại lần mẹ nhớ nhất: Hôm đó, trời cũng nắng chang chang, mẹ đang đi, có tiếng gọi: Sắt vụn, vào đây nhặt ít đồ, mẹ quay xe và vào nhặt những vỏ lon, sách cũ. Người phụ nữ bán đồ cho mẹ đã đi vào nhà, để cho mẹ tự phân loại rồi cân. Đang miệt mài phân loại giấy viết, giấy in, báo thì mẹ phát hiện một chiếc phong bì đã mở, bên ngoài có dòng chữ: Gửi con gái. Mẹ thấy bên trong vẫn có thư và hai tờ 200 nghìn. Mẹ đã biết đó là thư bố gửi cho con gái khi ông đi làm xa cùng với tiền chắc là cũng cho con mua sách vở hoặc nộp tiền học như trách nhiệm của mẹ với các con mình. Mặc dù số tiền đó bằng cả tháng mẹ đi gom sắt vụn nhưng mẹ hiểu tấm lòng của những người cha cũng đoán rằng người con vẫn dành dụm nên mẹ gọi người phụ nữ ra và trao lại cho bà.
Người phụ nữ ra nhận trong sự vui mừng và ngạc nhiên: Con gái tôi học Đại học, mỗi lần viết thư về, bố nó vẫn cho tiền để đóng học. Chắc nó để dành, lần sau về lấy, cảm ơn chị quá! Chị thật tốt bụng, cảm ơn chị rất nhiều.
Mẹ em cũng vui vẻ nói chuyện, kể về chúng tôi rồi trả tiền cho bà mặc dù bà không lấy coi như lời cảm ơn. Trước khi mẹ đi tiếp chặng đường, người phụ nữ ấy vẫn nói với theo: Cảm ơn chị, lần sau chị lại đến nhé, có gì bán được tôi sẽ để phần chị.
Mẹ kể lại câu chuyện về nghề sắt vụn của mình trong niềm vui, mẹ không nói với em bài học nhưng em biết mẹ muốn khuyên rằng: Sống phải giữ cho mình tấm lòng trong sạch, sự trung thực, không tham lam, dối trá. Em cũng đã ghi lại câu chuyện ấy vào sổ nhật lý của mình. Em rất ngưỡng mộ mẹ em.
Trong buổi chào cờ đầu tuần vừa qua, bạn Hoa của lớp 3B đã được tuyên dương trước toàn trường bởi đức tính trung thực của mình thể hiện qua hành động “nhặt được của rơi, trả người đánh mất” của bạn.
Theo như lời của thầy hiệu trưởng kể lại thì ngày thứ Năm của tuần trước, lớp 3B tan học sớm hơn các lớp khác. Và trên đường đi học về, bạn Hoa đã nhặt được một chiếc hộp mà thường được dùng để đựng đồ ở các tiệm vàng bạc, ban đầu bạn chỉ có ý định nhặt chiếc hộp để làm đồ chơi nhưng khi nhặt lên bạn phát hiện ra trong đó có một chiếc dây chuyền. Vì lúc đó đã khá trưa nên bạn mang chiếc hộp đó về nhà và đến buổi chiều bố Hoa đèo Hoa ra cơ quan công an huyện để nhờ các chú công an tìm giúp người đánh mất. Các chú đều khen Hoa thật thà và trung thực, tin tức nhanh chóng được thông báo và chỉ một ngày sau người đánh rơi chiếc hộp đó đã tìm đến cơ quan công an để nhận lại đồ của mình.
Người đánh rơi là một bác đã khá nhiều tuổi, chiếc dây chuyền là món quà mà bác mua để dành tặng cho cô con gái sắp cưới của bác nhưng bác không cẩn thận nên đã để rơi, tìm lại được chiếc dây chuyền bác rất vui và xin các chú công an số điện thoại và địa chỉ của gia đình bạn Hoa để cảm ơn, bác tìm đến nhà và gửi Hoa một ít tiền để cảm ơn bạn nhưng bạn không nhận không phải vì số tiền mà bác đưa ít mà bạn nói đây là việc cần phải làm của mỗi người.
Và cuối cùng bác đã tìm đến tận trường của Hoa học thông báo cho thầy cô để khen thưởng Hoa về việc làm của mình. Trong buổi chào cờ, Hoa đã được thầy hiệu trưởng tặng giấy khen vì đức tính thật thà, trung thực của bạn ấy, thầy còn nhấn mạnh đây chính là một tấm gương sáng để các bạn học sinh trong trường học tập và noi theo.
Việc làm của bạn thực sự là một việc làm rất ý nghĩa, thể hiện đức tính trung thực của cá nhân Hoa nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Chúng ta nên học tập sự thật thà đó để trở thành một học sinh tiêu biểu làm đúng theo điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.
Tuần trước, trường em phát động phong trào thi đua học tập và làm theo Năm điều Bác Hồ dạy. Em đã làm được một việc tốt là nhặt được của rơi, trả lại cho người đánh mất.
Trưa thứ năm, trên đường đi học về, qua quãng đường vắng, em nhìn thấy một túi xách nhỏ màu đen nằm ngay giữa đường. Em nhặt lên rồi vừa đi chầm chậm, vừa đưa mắt tìm kiếm chủ nhân của nó..
Một lúc lâu sau, vẫn không thấy ai. Em đoán người đánh rơi chiếc túi đã đi xa hoặc không biết là mình đánh rơi. Mà nếu biết, chắc giờ này họ đang loay hoay tìm trên những đoạn đường đã qua. Người ấy là ai nhỉ? Một bác cán bộ hay một chú công nhân, một anh bộ đội? Trong chiếc túi ấy đựng những gì? Thế nào lại chẳng có tài liệu, giấy tờ hay tiền bạc? Bao câu hỏi cứ dồn dập hiện lên trong óc em. Em đưa mắt nhìn quanh lần nữa. Những người chạy xe máy hay xe đạp trên đường không một ai chú ý tới em đang ngơ ngác với chiếc cặp trên vai và chiếc túi lạ trên tay.
Em nghĩ ngợi, phân vân mãi: Trả hay không trả? Nếu mình không trả, có ai biết đâu mà trách? Có tiền, mình sẽ mua truyện tranh này, mua áo quần mới này và mua những đồ chơi mà mình ao ước từ lâu. Tưởng tượng đến lúc ấy, em thích lắm, bước chân như nhanh hơn, nhẹ nhàng hơn. Bỗng dưng, tiếng thầy Hiệu trưởng trong buổi lễ phát động như văng vẳng đâu đây: “Các em hãy ghi nhớ Năm điều Bác Hồ dạy, cố gắng học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi…”.
Không! Không nên tham của người khác! Phải trả lại thôi!
Chủ nhân chiếc túi xách này sẽ mừng biết bao nếu tìm lại được nó. Nhưng biết ai là người đánh rơi mà trả? Tốt nhất là đem nộp cho các chú công an.
Giữa trưa, trụ sở công an phường vắng vẻ, chỉ có một chú trực ban. Thấy em ngập ngừng ở cửa, chú vồn vã hỏi:
– Có chuyện chi đó cháu?
– Dạ thưa chú, cháu nhặt được cái túi xách này. Cháu đem nộp, nhờ chú trả lại cho người mất ạ!
Đỡ chiếc túi từ tay em, chú tươi cười xoa đầu em rồi bảo:
– Cháu ngoan lắm, không tham của rơi! Chú cháu mình xem trong này có những gì để còn ghi vào biên bản nhé !
Rồi chú lấy ra một xấp giấy tờ chủ quyền nhà, chủ quyền xe và hơn hai triệu tiền mặt. Chú ghi rõ từng thứ vào biên bản rồi yêu cầu em ghi tên và địa chỉ xuống phía dưới.
Sáng thứ hai tuần sau, em được thầy Hiệu trưởng và cô Tổng phụ trách Đội tuyên dương trong tiết chào cờ. Tiếng vỗ tay nồng nhiệt của toàn trường khiến em vô cùng xúc động. Buổi tối, gia đình em tiếp một người khách lạ.
Đó chính là chủ nhân của chiếc túi. Bác cảm ơn em mãi và tặng em một trăm ngàn để mua sách vở hoặc đồ chơi nhưng em nhẹ nhàng từ chối.
Ba mẹ em rất mừng vì em biết làm điều tốt. Lời khen chân thành của mọi người đối với em là phần thưởng quý giá nhất. Nhớ lại chuyện ấy, giờ đây em vẫn thấy vui.
Câu trả lời của bạn
Người ta thường có câu rằng: “Ở hiền thì gặp lành” quả không sai. Nhờ trời, tôi đã được gặp anh dế Mèn. Từ đây, cuộc đời của tôi đã được bước sang một trang mới sáng sủa, tươi đẹp hơn. Chuyện là thế này:
Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ tôi đã phải vay lương ăn của bọn Nhện. Sau đấy, không may mẹ mất đi, còn lại thui thủi có một mình. Mà tôi vốn sinh ra đã ốm yếu, kiếm bữa nuôi thân còn chẳng đủ. Bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Không có gì trả nợ, mấy bận bọn Nhện đã đánh tôi. Chúng còn đe trên đường về nhà hôm đó sẽ chăng tơ ngang đường để bắt, vặt chân, vặt cánh ăn thịt tôi. Vừa buồn vừa sợ, tôi ngồi gục bên tảng đá cuội khóc thổn thức. Đột nhiên có bàn tay khẽ lay tôi và hỏi:
- Tại sao em lại ngồi đay mà khóc thế này? Có việc gì cứ nói anh sẽ giúp.
Thì ra là anh Dế Mèn. Tôi bèn kể chuyện đời mình cho anh nghe. Nghe xong, anh xòe hai càng ra bảo:
- Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe ăn hiếp kẻ yếu.
Rồi anh dắt tôi đi. Đi được một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chăng từ bên nọ sang bên kia biết bao đường tơ. Khi nghe thấy tiếng anh Dế hỏi, từ trong hốc đá, một mụ Nhện cái cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Trông mụ đanh đá, nặc nô lắm. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ Nhện co rút lại rồi cúi rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Anh quát:
- Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi. Có phá hết các vòng vây đi không?
Bọn Nhện sợ hãi cùng dạ ran. Cả bọn cuống cuồng chạy dọc chạy ngang, phá hết các dây tơ chăng lối.
Cảm ơn anh Dế Mèn, tôi sung sướng trở về tổ.
Người ta thường có câu rằng: “Ở hiền thì gặp lành” quả không sai. Nhờ trời, tôi đã được gặp anh dế Mèn. Từ đây, cuộc đời của tôi đã được bước sang một trang mới sáng sủa, tươi đẹp hơn. Chuyện là thế này:
Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ tôi đã phải vay lương ăn của bọn Nhện. Sau đấy, không may mẹ mất đi, còn lại thui thủi có một mình. Mà tôi vốn sinh ra đã ốm yếu, kiếm bữa nuôi thân còn chẳng đủ. Bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Không có gì trả nợ, mấy bận bọn Nhện đã đánh tôi. Chúng còn đe trên đường về nhà hôm dó sẽ chăng tơ ngang đường để bắt, vặt chân, vặt cánh ăn thịt tôi. Vừa buồn vừa sợ, tôi ngồi gục bên tảng đá cuội khóc thổn thức. Đột nhiên có bàn tay khẽ aly tôi và hỏi:
- Tại sao em lại ngồi đay mà khóc thế này? Có việc gì cứ nói anh sẽ giúp.
Thì ra là anh Dế Mèn. Tôi bèn kể chuyện đời mình cho anh nghe. Nghe xong, anh xòe hai càng ra bảo:
- Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏa ăn hiếp kẻ yếu.
Rồi anh dắt tôi đi. Đi được một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chăng từ bên nọ sang bên kia biết bao đường tơ. Khi nghe thấy tiếng anh Dế hỏi, từ trong hốc đá, một mụ Nhện cái cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Trông mụ đanh đá, nặc nô lắm. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ Nhện co rút lại rồi cúi rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Anh quát:
- Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ dời mãi một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi. Có phá hết các vòng vây đi không?
Bọn Nhện sợ hãi cùng dạ ran. Cả bọn cuống cuồn chạy dọc chạy ngang, phá hết các dây tơ chăng lối.
Cảm ơn anh Dế Mèn, tôi sung sướng trở về tổ.
Ở hiền thì gặp lành quả không sai. Chuyện là thế này:
Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ tôi đã phải vay lương ăn của bọn Nhện. Sau đấy, không may mẹ mất đi, còn lại thui thủi có một mình. Mà tôi vốn sinh ra đã ốm yếu, kiếm bữa nuôi thân còn chẳng đủ. Bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Không có gì trả nợ, mấy bận bọn Nhện đã đánh tôi. Vừa buồn vừa sợ, tôi ngồi gục bên tảng đá cuội khóc thổn thức. Đột nhiên có bàn tay khẽ lay tôi và hỏi:
- Tại sao em lại ngồi đay mà khóc thế này? Có việc gì cứ nói anh sẽ giúp.
Thì ra là anh Dế Mèn. Tôi bèn kể chuyện đời mình cho anh nghe. Nghe xong, anh xòe hai càng ra bảo:
- Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe ăn hiếp kẻ yếu.
Rồi anh dắt tôi đi. Đi được một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chăng từ bên nọ sang bên kia biết bao đường tơ. Khi nghe thấy tiếng anh Dế hỏi, từ trong hốc đá, một mụ Nhện cái cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Trông mụ đanh đá, nặc nô lắm. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ Nhện co rút lại rồi cúi rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Anh quát:
- Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi. Có phá hết các vòng vây đi không?
Bọn Nhện sợ hãi cùng dạ ran. Cả bọn cuống cuồng chạy dọc chạy ngang, phá hết các dây tơ chăng lối.
Cảm ơn anh Dế Mèn, tôi sung sướng trở về tổ.
Người ta thường có câu rằng: “Ở hiền thì gặp lành” quả không sai. Nhờ trời, tôi đã được gặp anh dế Mèn. Từ đây, cuộc đời của tôi đã được bước sang một trang mới sáng sủa, tươi đẹp hơn. Chuyện là thế này:
Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ tôi đã phải vay lương ăn của bọn Nhện. Sau đấy, không may mẹ mất đi, còn lại thui thủi có một mình. Mà tôi vốn sinh ra đã ốm yếu, kiếm bữa nuôi thân còn chẳng đủ. Bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Không có gì trả nợ, mấy bận bọn Nhện đã đánh tôi. Chúng còn đe trên đường về nhà hôm đó sẽ chăng tơ ngang đường để bắt, vặt chân, vặt cánh ăn thịt tôi. Vừa buồn vừa sợ, tôi ngồi gục bên tảng đá cuội khóc thổn thức. Đột nhiên có bàn tay khẽ lay tôi và hỏi:
- Tại sao em lại ngồi đay mà khóc thế này? Có việc gì cứ nói anh sẽ giúp.
Thì ra là anh Dế Mèn. Tôi bèn kể chuyện đời mình cho anh nghe. Nghe xong, anh xòe hai càng ra bảo:
- Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khỏe ăn hiếp kẻ yếu.
Rồi anh dắt tôi đi. Đi được một quãng thì đến chỗ mai phục của bọn Nhện. Bọn Nhện chăng từ bên nọ sang bên kia biết bao đường tơ. Khi nghe thấy tiếng anh Dế hỏi, từ trong hốc đá, một mụ Nhện cái cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Trông mụ đanh đá, nặc nô lắm. Dế Mèn quay phắt lưng, phóng càng đạp phanh phách ra oai. Mụ Nhện co rút lại rồi cúi rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo. Anh quát:
- Các người có của ăn của để, béo múp béo míp mà cứ đòi mãi một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi. Có phá hết các vòng vây đi không?
Bọn Nhện sợ hãi cùng dạ ran. Cả bọn cuống cuồng chạy dọc chạy ngang, phá hết các dây tơ chăng lối.
Cảm ơn anh Dế Mèn, tôi sung sướng trở về tổ.
Câu trả lời của bạn
Đã lâu lắm rồi, tôi không gặp anh Dế Mèn. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi chuyện xảy ra giữa hị nhà Nhện chúng tôi với anh Mèn.
Họ Nhện chúng tôi vốn sống thành bầy đàn và giăng tơ để kiếm mồi. Cũng may, nhờ trời phù hộ mà họ hàng nhà tôi có của ăn của để, còn cho vay nữa. Trong đó có mẹ con chị Nhà Trò đã vay mà không chịu trả. Bà mẹ mất đi, để lại cô con gái yếu ớt. Nó chẳng có khả năng trả nợ nên tôi tức giận lắm. Mấy bận đã cho người đánh nó và còn đe dọa sẽ chăng tơ ngang đường, bắt nó vặt chân vặt cánh ăn thịt. Tôi lấy thế làm hả dạ lắm. Vì tôi vốn ghét những kẻ vay mượn mà ăn quỵt.
Chiều hôm đó, biết Nhà Tró sẽ đi ngang qua nên họ Nhện chúng tôi đã vây lưới giăng bắt. Tất cả đang chờ Nhà Trò đến. Nhưng từ xa tôi thấy Nhà Trò không đi một mình mà đi cùng một chàng Dế khỏe mạnh. Không lui bước, tôi vẫn ra lệnh cho bọn Nhện ra nghênh chiến. Bao nhiêu Nhện mẹ, Nhện con, Nhện gìa, Nhện nước, Nhện tường…đủ cả. Nhà trò và anh chàng Dế Mèn cũng vừa đến nơi. Nhà Trò sợ hãi nấp sau lưng Dế Mèn. Tôi nhìn thấy nó mà nỗi căm giận trong lòng càng tăng lên. Nó không những không chịu trả nợ mà còn lôi kéo một tên Dế đến để dọa nạt nhà Nhện chúng tôi. Anh chàng Dế Mèn lên tiếng hỏi lớn. Từ trong hốc đá, tôi nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Tôi chưa kịp hành động gì thì Dế Mèn đã quay phắt lưng, phóng càng đạp vào đầu tôi một cái đau điếng. Bất ngờ và không kịp phòng thủ, tôi hốt hoảng, co người lại. Bao nhiêu khí thế ban đầu tự nhiên đi đâu mất. Lúc bấy giờ, tôi nhận ra anh chàng Dế này không phải là tay vừa, nếu làm căng thì thiệt hại chỉ về phần mình thôi. Hơn nữa còn bao nhiêu họ Nhện đang ở đây, tôi lại là Nhện chỉ huy nên cũng không đành nhìn nhà mình bị kẻ khác phá hoại. Trách nhiệm của một người chỉ huy khiến tôi phải suy nghĩ. Cuối cùng, tôi rập đầu xuống dất và tỏ ý hối hận, ăn năn và sợ hãi…hy vọng Dế Mèn sẽ bỏ qua. Tôi cứ rập đầu mãi nên không biết anh ta có đồng ý hay không, chỉ nghe thoáng bên tai tiếng anh ta thét. Lắng nghe điều anh Dế Mèn nói tôi cũng thấy thật chí lí. Gia đình Nhện chúng tôi đã đủ đồ ăn lại có dự trữ, Nhà Trò thì cô độc, yếu ớt thế mà còn cứ đòi nợ mãi. Hơn nữa, tôi không nghĩ rằng, trên đời vẫn có những người nghĩa hiệp, giúp người khác như anh Mèn. Anh ấy quả là người nghĩa khí và hiểu biết. Anh dùng những lời lẽ phải trái để giúp tôi thức tỉnh. Và tôi cũng biết rằng, nếu dùng sức chắc thế nào anh Mèn cũng thắng. Thế là cả nhà tôi mau mau phá hết các vòng vây đã giăng lúc trước, đốt hết văn tự nợ của nhà Tró theo lời Dế Mèn. Nhìn Nhà Trò hạnh phúc khiến tôi cũng rưng rưng. Bọn Nhện nhà tôi chạy ra nắm chân Nhà Trò nhảy múa, hát ca ầm ĩ…
Anh Dế Mèn đã để lại cho tôi một ấn tượng rất sâu sắc. nếu khoogn có anh hôm đó ra tay cứu giúp Nhà Trò thì không biết chúng tôi đã gay ra sai lầm gì. Từ đó, tôi hiểu thế nào là yêu thương, bênh vực kẻ yếu và không được cậy mạnh để bắt nạt người khác.
Câu trả lời của bạn
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước. Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Chúc bạn học tôt
chịu kho vảy
ko bít
dấu hai chấm có tác dụng bào hiệu ....gạch đầu dòng
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước. Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
YÊNTÂMĐÚNG
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
chụi rồi
Tác dụng của dấu hai chấm :
_ Dấu hai chấm: báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phối hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phối hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
.
+ Tác dụng của dấu hai chấm là :
- Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
- Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phối hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng .
dấu hai chấm có thể là dấu chia
chịu
Dấu hai chấm có tác dụng báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước. Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Dấu 2 chấm : báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Dấu 2 chấm : báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của một nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận đứng trước.
Khi báo hiệu lời nói của nhân vật, dấu hai chấm được dùng phói hợp với dấu ngoặc kép hay dấu gạch đầu dòng.
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *